TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 111/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/05/2021 VỀ LY HÔN
Ngày 07 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 143/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 53/2021/QĐST- HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1985; Hộ khẩu thường trú: xã HKT, huyện Đ, tỉnh Long An; Địa chỉ liên hệ: xã ĐLH, huyện Đ, tỉnh Long An. (xin vắng mặt)
Bị đơn: Phạm Minh H, sinh năm 1977; Địa chỉ:xã HKT, huyện Đ, tỉnh Long An. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 22 tháng 02 năm 2021, nguyên đơn Bà Ttrình bày: Bà và ông H có tìm hiểu, sau đó đi đến hôn nhân, đăng ký kết hôn tại UBND xã HKT, huyện Đ, tỉnh Long An ngày 17/5/2006. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn do cuộc sống không phù hợp, bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân. Vợ chồng sống ly thân 4 tháng. Nay, tình cảm vợ chồng bị rạn nứt, khó mong hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin ly hôn với ông H.
Về con chung: Bà và ông H có 2 con chung tên Phạm Hà V, sinh ngày 17/9/2003 và Phạm Minh N, sinh ngày 07/3/2008. Khi ly hôn, bà yêu cầu nuôi hai con chung, không yêu cầu ông H cấp dưỡng.
Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Bà T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông H, hiện đang sinh sống tại huyện Đ, tỉnh Long An nên Tòa án nhân dân huyện Đ thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[1.2]. Tại phiên tòa, nguyên đơn Bà T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn ông H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.
[1.3]. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng ông H vẫn vắng mặt. Bà T có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên đưa vụ án ra xét xử.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà T, ông H chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã HKT, huyện Đ, tỉnh Long An ngày 17/5/2006 nên hôn nhân giữa ông bà là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3]. Về yêu cầu ly hôn: Trong quá trình chung sống, Bà T cho rằng vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do cuộc sống không phù hợp, bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân. Vợ chồng sống ly thân 4 tháng. Nay, tình cảm vợ chồng bị rạn nứt, khó mong hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin ly hôn với ông H. Đối với ông H, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng theo quy định, biết được yêu cầu khởi kiện của Bà T nhưng ông H không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của bà T. Tại phiên tòa hôm nay, ông H vẫn vắng mặt, chứng tỏ ông không có thiện chí để hàn gắn. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó xét yêu cầu xin ly hôn của Bà T đối với ông H là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4]. Về con chung: Quá trình chung sống, Bà T và ông H có con chung tên Phạm Hà V, sinh ngày 17/9/2003 và Phạm Minh N, sinh ngày 07/3/2008. Khi ly hôn, Bà T yêu cầu nuôi hai con chung, không yêu cầu ông H cấp dưỡng. Đối với ông H, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng theo quy định, biết được yêu cầu khởi kiện của Bà T về con chung nhưng ông H không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của bà T. Xét thấy, cháu V hiện đang sinh sống với cha và có nguyện vọng sống với cha. Cháu N hiện đang sinh sống với mẹ và có nguyện vọng sống với mẹ, để đảm bảo sự phát triển bình thường của hai cháu và theo nguyện vọng của hai cháu nên cần giao con chung tên Phạm Minh N cho Bà T nuôi dưỡng; giao con chung tên Phạm Hà V cho ông H nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Bà T về con chung.
[5]. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà T không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Ông H không có văn bản phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6]. Về tài sản chung và nợ chung: Bà T trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông H không có văn bản phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7]. Về án phí: Bà T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc T đối với ông Phạm Minh H về việc “Ly hôn”.
Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Ngọc T được ly hôn với ông Phạm Minh H.
2. Về con chung: Buộc ông H có trách nhiệm giao con chung tên Phạm Minh N, sinh ngày 07/3/2008 cho Bà T nuôi dưỡng; Buộc Bà T có trách nhiệm giao con chung tên Phạm Hà V, sinh ngày 17/9/2003 cho ông H nuôi dưỡng. Ông H không phải cấp dưỡng nuôi con, do Bà T không có yêu cầu.
Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.
Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí: Bà T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0007501 ngày 22/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Long An để thi hành. Bà T đã nộp đủ.
Án xử sơ thẩm, công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn số 111/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 111/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 07/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về