Bản án về ly hôn số 09/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 09/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/04/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 25/4/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 17/2022/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 02 năm 2022 về tranh chấp: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/3/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2022/QĐST-HNGĐ ngày 14/4/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Mai Thị P – Sinh năm: 1995 – Trú tại: Số X Đ 15, tổ 84 phường N, quận S, Tp.Đà Nẵng. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc Q- Sinh năm: 1992 – Trú tại: Số X Đ 15, tổ 84 phường N, quận S, Tp.Đà Nẵng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, tại bản tự khai và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Mai Thị P trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Mai Thị P và ông Nguyễn Ngọc Q xây dựng gia đình với nhau vào năm 2013. Hôn nhân tự nguyện, có thời gian tìm hiểu nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND phường N, quận Sơn Trà, Tp Đà Nẵng. Sau khi kết hôn, vợ chồng ông, bà chung sống tại nhà cha, mẹ ruột ông Q ở địa chỉ: Số X Nại Hiên Đông 15, tổ 84 phường N, quận Sơn Trà, Tp.Đà Nẵng. Chung sống đến năm 2020 thì giữa vợ chồng bà phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông Q thường xuyên rượu chè về nhà gây sự, dùng vũ lực với bà; mặc khác, do không tin tưởng nhau về mặt kinh tế nên giữa vợ chồng luôn xảy ra xung đột. Mâu thuẫn của ông bà đã được Công an phường N nhắc nhở và hòa giải nhưng không có kết quả. Ông Q và bà P đã sống ly thân từ năm 2021 cho đến nay, không ai quan tâm chăm sóc nhau trong cuộc sống. Nay xét thấy mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm của bà P đối với ông Nguyễn Ngọc Q không còn, do đó bà xin được ly hôn với ông Nguyễn Ngọc Q.

- Về quan hệ con chung: Bà Mai Thị P xác định bà và ông Nguyễn Ngọc Qcó 02 con chung là: Nguyễn Ngọc Trọng P, sinh ngày: 07/12/2013 và Nguyễn Ngọc Q, sinh ngày: 06/5/2017. Ly hôn, bà Mai Thị P có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con Nguyễn Ngọc Q cho đến khi con đủ 18 tuổi; giao con Nguyễn Ngọc Trọng P cho ông Nguyễn Ngọc Qđược trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về quan hệ tài sản chung: Bà Mai Thị P xác định không có.

- Về nợ chung: Bà Mai Thị P xác định không có.

* Đối với bị đơn – ông Nguyễn Ngọc Quý: Mặc dù đã được Tòa án đã giao hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông Nguyễn Ngọc Q đều vắng mặt và không có ý kiến phản hồi nên không ghi nhận được ý kiến của ông về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Theo đó, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân thủ đúng pháp luật, riêng bị đơn ông Nguyễn Ngọc Q không chấp hành triệu tập của Tòa án, chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Mai Thị P đối với ông Nguyễn Ngọc Q.

- Về quan hệ con chung: Áp dụng điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung Nguyễn Ngọc Q - Sinh ngày 06/5/2017 cho bà Mai Thị P được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con Nguyễn Ngọc Q đủ 18 tuổi; giao con - Sinh ngày 07/12/2013 cho ông Nguyễn Ngọc Q được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con Nguyễn Ngọc Trọng P đủ 18 tuổi. Do bà Mai Thị P không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà Mai Thị P xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung. Tại phiên tòa ông Nguyễn Ngọc Q vắng mặt nên để đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết về tài sản chung và nợ chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, HĐXX nhận định:

[1] Về thủ tục: Đơn khởi kiện của bà Mai Thị P nộp tại Tòa án là đúng thủ tục và thẩm quyền được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông Nguyễn Ngọc Q là bị đơn trong vụ án, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng ông Nguyễn Ngọc Q vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung: Bà Mai Thị P và ông Nguyễn Ngọc Q đăng ký kết hôn vào năm 2013 tại UBND phường N, quận Sơn Trà, Tp Đà Nẵng theo giấy chứng nhận kết hôn số: 89, cấp ngày 27/6/2013. Hôn nhân tự nguyện, có thời gian tìm hiểu nhau. Đây là cuộc hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Sau khi kết hôn, vợ chồng ông, bà chung sống tại nhà cha, mẹ ruột ông Q ở địa chỉ: Số 16 Nại Hiên Đông 15, tổ 84 phường N, quận Sơn Trà, Tp.Đà Nẵng. Chung sống đến năm 2021 thì giữa vợ chồng bà phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông Q thường xuyên rượu chè về nhà gây sự, dùng vũ lực với bà; mặc khác, do không tin tưởng nhau về mặt kinh tế nên giữa vợ chồng luôn xảy ra xung đột. Mâu thuẫn của ông bà đã được Công an phường N nhắc nhở và hòa giải nhưng không có kết quả. Ông Q và bà P đã sống ly thân từ năm 2020 cho đến nay, không ai quan tâm chăm sóc nhau trong cuộc sống. Nay bà Mai Thị P xác định không còn yêu thương ông Nguyễn Ngọc Q nữa, bà xin được ly hôn.

Xét yêu cầu xin ly hôn của bà Mai Thị P đối với ông Nguyễn Ngọc Qthì thấy: Hạnh phúc gia đình chỉ thật sự có được dựa trên sự yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, thế nhưng giữa bà Mai Thị P và ông Nguyễn Ngọc Q lại không làm được điều này. Khi mâu thuẫn xảy ra hai bên không tìm được cách giải quyết đề hàn gắn và xây dựng gia đình. Qua xác minh tại địa phương thể hiện mâu thuẫn giữa bà P và ông Q là có thật, giữa ông Q và bà P có xảy ra lớn tiếng, xô xát nhau và đã được Công an phường N nhắc nhở và hòa giải. Về phía ông Nguyễn Ngọc Q, Tòa án đã tạo điều kiện nhiều lần để vợ chồng hòa giải mâu thuẫn, trở về đoàn tụ chung sống với nhau nhưng ông Nguyễn Ngọc Q đều vắng mặt tại các phiên hòa giải. Việc này cho thấy ông Nguyễn Ngọc Q không tôn trọng Tòa án và thờ ơ với việc hàn gắn hạnh phúc gia đình, không có thiện chí níu kéo mối quan hệ hôn nhân của mình. Xét thấy, mâu thuẫn của bà Mai Thị P và ông Nguyễn Ngọc Q đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên HĐXX chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Mai Thị P đối với ông Nguyễn Ngọc Q là phù hợp quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Bà Mai Thị P xác định bà và ông Nguyễn Ngọc Q có 02 con chung là: Nguyễn Ngọc Trọng P, sinh ngày: 07/12/2013 và Nguyễn Ngọc Q, sinh ngày: 06/5/2017. Ly hôn, bà Mai Thị P có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con Nguyễn Ngọc Q cho đến khi con đủ 18 tuổi; giao con Nguyễn Ngọc Trọng P cho ông Nguyễn Ngọc Q được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu của bà P về việc nuôi con chung thì thấy: Việc giao con cho ai trông nom, nuôi dưỡng đều phải dựa vào quyền lợi mọi mặt của con, đảm bảo được sự phát triển của con cả về thể chất lẫn tinh thần. Từ khi ông bà ly thân cho đến nay, cháu Nguyễn Ngọc Q được bà P chăm sóc, nuôi dưỡng, còn cháu Nguyễn Ngọc Trọng P do ông Q chăm sóc, nuôi dưỡng. Hiện tại, các cháu đã ổn định cuộc sống và môi trường học tập nên cần chấp nhận yêu cầu của bà P về việc nuôi con chung như trên là phù hợp với nguyện vọng của con chung, phù hợp với tình hình thực tế, phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Đối với việc cấp dưỡng nuôi con: Do bà P không yêu cầu nên HĐXX không đề cập giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Mai Thị P xác định vợ chồng bà không có tài sản chung và nợ chung. Ông Nguyễn Ngọc Q vắng mặt nên không ghi nhận được kiến của ông về vấn đề này. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự, HĐXX không xem xét giải quyết. Nếu các đương sự có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung thì sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.

[5] Án phí HNGĐ sơ thẩm: 300.000 đồng bà Mai Thị P phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc "Ly hôn" của bà Mai Thị P đối với ông Nguyễn Ngọc Quý.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Mai Thị P được ly hôn ông Nguyễn Ngọc Quý.

Do chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Mai Thị P đối với ông Nguyễn Ngọc Qnên giấy chứng nhận kết hôn số 89 do UBND phường N,quận S, Tp Đà Nẵng cấp cho bà Mai Thị P và ông Nguyễn Ngọc Q ngày 27/6/2013 không còn giá trị pháp lý.

2. Về quan hệ con chung: Giao con chung Nguyễn Ngọc Q- Sinh ngày 06/5/2017 cho bà Mai Thị P được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con Nguyễn Ngọc Q đủ 18 tuổi; giao con chung Nguyễn Ngọc Trọng P- Sinh ngày 07/12/2013 cho ông Nguyễn Ngọc Q được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con Nguyễn Ngọc Trọng P đủ 18 tuổi. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bên không trực tiếp nuôi con vẫn được thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung, không ai được cản trở. Khi cần thiết vì lợi ích của con chung, các bên đều có quyền yêu cầu giải quyết về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Án phí HNGĐ-ST: 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) bà Mai Thị P phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) bà Mai Thị P đã nộp tại biên lai thu số 3157 ngày 16/02/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Bà Mai Thị P đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai sơ thẩm, các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản sao án hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự. người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

341
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 09/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:09/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về