Bản án về ly hôn, nuôi con số 79/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MANG THÍT, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 79/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/07/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 27 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Vĩnh Long. Xét xử công khai sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 140/2022/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2022, về việc: “Xin ly hôn, nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 84/2022/QĐST – HNGĐ, ngày 20 tháng 6 năm 2022 giữa các đượng sự:

Nguyên đơn: Anh Hồ Minh S, sinh năm 1979 Địa chỉ: ấp L1, xã L2, huyện M, tỉnh Vĩnh Long.

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 1988 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp L1, xã L2, huyện M, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Hồ Minh S trình bày: Nguyên vào năm 2010, anh và chị Nguyễn Thị Q qua quá trình tìm hiểu, quen biết, được gia đình hai chấp thuận cưới hỏi theo phong tục tập quán, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L2, huyện M, tỉnh Vĩnh Long và đã được cấp giấy chứng nhận ngày 20/7/2011.

Sau khi kết hôn vợ chồng về sinh sống tại ấp L1, xã L2, huyện M, tỉnh Vĩnh Long. Thời gian đầu chung sống hòa thuận hạnh phúc, đến cuối năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẩn, thường xuyên cãi nhau do bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng rạn nứt. Chị Q đã về nhà mẹ ruột ở Khóm 7, thị trấn S1, huyện T, tỉnh Cà Mau làm ăn sinh sống. Anh đã đến thăm năn nỉ để rước vợ về, khuyên can để vợ chồng đoàn tụ, cùng chăm lo cho con nhưng chị Q không chịu quay về, cũng không về thăm con. Qua nhiều lần liên lạc điện thoại nhưng vẫn không tìm được tiếng nói chung dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay anh nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn lại được nên yêu cầu được ly hôn chị Nguyễn Thị Q.

- Về con chung: quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên là Hồ Thị Bảo N, sinh ngày 07 tháng 4 năm 2011 hiện đang sống với anh, anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, không yêu cầu chị Q cấp dưỡng nuôi con chung.

- Quyền và nghĩa vụ về tài sản chung, nợ chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho bị đơn chị Nguyễn Thị Q nhưng bị đơn vắng mặt không rõ lý do nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, nguyên đơn anh Hồ Minh S vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn chị Nguyễn Thị Q vắng mặt không có lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn chị Nguyễn Thị Q đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt chị Q.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Năm 2010, anh Hồ Minh S và chị Nguyễn Thị Q kết hôn theo phong tục tập quán, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L2, huyện M, tỉnh Vĩnh Long và đã được cấp giấy chứng nhận ngày 20/7/2011. Vì vậy quan hệ hôn nhân của anh S và chị Q là hôn nhân hợp pháp.

Xét trong quá trình chung sống anh S cho rằng thời gian đầu chung sống hòa thuận hạnh phúc, đến cuối năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẩn, thường xuyên cãi nhau do bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng rạn nứt. Chị Q đã về nhà mẹ ruột ở Khóm 7, thị trấn S1, huyện T, tỉnh Cà Mau làm ăn sinh sống. Anh đã đến thăm năn nỉ để rước vợ về, khuyên can để vợ chồng đoàn tụ, cùng chăm lo cho con nhưng chị Q không chịu quay về. Chị Q đã được Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định để trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của anh S nhưng vắng mặt không có lý do. Do đó chứng tỏ rằng tình trạng hôn nhân giữa anh S và chị Q trở nên trầm trọng, không thể hàn gắn được, nên xét anh S yêu cầu ly hôn với chị Q là có căn cứ phù hợp với Điều 51 và 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Anh S xác định vợ chồng có một con chung Hồ Thị Bảo N, sinh ngày 07 tháng 4 năm 2011 hiện đang sống với anh, anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, chưa yêu cầu chị Q cấp dưỡng nuôi con chung. Quá trình giải quyết cháu Bảo N cũng có nguyện vọng sống với cha là anh S nếu cha mẹ ly hôn. Do đó Hội đồng xét xử giao con chung Hồ Thị Bảo N cho anh S tiếp tục nuôi dưỡng, chị Q chưa phải cấp dưỡng nuôi con chung do bên trực tiếp nuôi con chưa yêu cầu là phù hợp theo quy định tại Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Quyền và nghĩa vụ về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[5] Về án phí: Anh Hồ Minh S phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Hồ Minh S.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Hồ Minh S được ly hôn với chị Nguyễn Thị Q.

2/ Về con chung: Giao con chung Hồ Thị Bảo N, sinh ngày 07 tháng 4 năm 2011 cho anh Hồ Minh S tiếp tục nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do bên trực tiếp nuôi dưỡng chưa yêu cầu cấp dưỡng nuôi con không xem xét.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3/ Quyền và nghĩa vụ về tài sản chung: không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

4/ Về án phí: Anh Hồ Minh S phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, số tiền này được khấu trừ từ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện M theo lai thu số No 0007080 ngày 27 tháng 4 năm 2022, anh S không phải nộp thêm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoạc tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

69
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con số 79/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:79/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mang Thít - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về