Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 19/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN MINH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 19/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 29 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 199/2021/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2021 về "ly hôn, nuôi con chung".

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 15 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hồ Kim M, sinh năm 1996 Địa chỉ: ấp M, xã V, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc T, sinh năm 1991 Địa chỉ: ấp X, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Hồ Kim M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Quốc T tự tìm hiểu nhau, sau đó tiến đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện và được Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện A cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 2014. Quá trình chung sống vợ chồng không hòa hợp nhau về suy nghĩ, tính cách, thường hay cãi nhau. Anh T rất nghe lời mẹ ruột của anh T, chị nói gì anh T cũng không chấp nhận. Chị và anh T cố gắng hàn gắn nhưng không có kết quả, không thể cùng nhau xây dựng gia đình, chị và anh T đã ly thân từ năm 2016 đến nay và có cuộc sống riêng. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị và anh T có 01 người con chung là Nguyễn Trường A, sinh ngày 18/12/2014, anh T đang nuôi dưỡng và con có nguyện vọng sống chung với anh T. Khi ly hôn chị tự nguyện để con chung cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị và anh T không có tài sản chung và nợ chung, không phát sinh tranh chấp, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

* Bị đơn anh Nguyễn Quốc T vắng mặt, không có lời trình bày.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa có ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, riêng bị đơn anh T vắng mặt tại phiên họp và phiên tòa lần thứ 2 mà không có lý do là chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về hướng giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị M, giao con chung cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng, chị M không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh T vắng mặt, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng anh T vắng mặt lần thứ hai không có lý do là chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chị M có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị M, anh T.

[2] Về quan hệ hôn nhân, chị M và anh T chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn năm 2014 nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Nguyên nhân dẫn đến ly hôn, chị M cho rằng trong quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, không hòa hợp nhau về suy nghĩ, tính cách, thường hay cãi nhau. Anh T rất nghe lời mẹ ruột của anh T, chị nói gì anh T cũng không chấp nhận, anh chị cũng dành cho nhau cơ hội hàn gắn nhưng không có kết quả, không thể cùng nhau xây dựng gia đình, đã ly thân từ năm 2016. Còn anh T vắng mặt, không có ý kiến, không tham gia các phiên họp và phiên tòa sơ thẩm. Hội đồng xét xử xét thấy, quá trình chung sống với nhau chị M và anh T có nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, Ban lãnh đạo ấp X cũng xác nhận anh chị thường xuyên cãi nhau, có lúc còn đánh nhau, hai bên gia đình xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, địa phương đã hòa giải rất nhiều lần như không khắc phục được.

Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa chị M và anh T không đảm bảo theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về tình nghĩa vợ chồng, Hội đồng xét xử có căn cứ để cho rằng hôn nhân giữa anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Hơn nữa, anh chị đã sống ly thân thời gian dài nhưng không khắc phục được mâu thuẫn để vợ chồng tiếp tục chung sống nên không có khả năng đoàn tụ. Do đó, trong thảo luận nghị án, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị M với anh T.

[4] Về con chung, chị M và anh T có 01 người con chung là Nguyễn Trường A, sinh ngày 18/12/2014, anh T đang nuôi dưỡng và con có nguyện vọng sống chung với anh T. Khi ly hôn chị M tự nguyện để con chung cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng. Xét thấy, anh T có đủ điều kiện nuôi con, chị M cũng thống nhất giao con chung cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng, đồng thời cũng phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của con nên Hội đồng xét xử chấp nhận để anh T được tiếp tục nuôi dưỡng con là Nguyễn Trường A. Chị M có quyền, nghĩa vụ tới lui thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật, không ai được quyền cản trở. Trường hợp anh T vi phạm nghĩa vụ nuôi con hoặc không còn đủ điều kiện nuôi con thì chị M có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về cấp dưỡng, không ai yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung, chị M khai chị và anh T không có tài sản chung và nợ chung, không phát sinh tranh chấp, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí, nguyên đơn chị M phải chịu án phí ly hôn theo quy định là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 9, Điều 19, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: chị Hồ Kim M được ly hôn với anh Nguyễn Quốc T.

2. Về con chung: Tiếp tục giao cháu Nguyễn Trường A, sinh ngày 18/12/2014 cho anh T được trực tiếp nuôi dưỡng.

Chị M có quyền, nghĩa vụ tới lui thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật, không ai được quyền cản trở. Trường hợp anh T vi phạm nghĩa vụ nuôi con hoặc không còn đủ điều kiện nuôi con thì chị M có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Về cấp dưỡng, không ai yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

3. Về tài sản chung và nợ chung: chị M khai chị và anh T không có tài sản chung và nợ chung, không phát sinh tranh chấp, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Chị M phải chịu án phí xin ly hôn là 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo lai thu số 0005067 ngày 27/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Minh.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự đều vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 19/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:19/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Minh - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về