Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 14/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGHĨA LỘ - TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/07/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 15 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở tòa án nhân dân thị xã Nghĩa Lộ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 69/2022/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2022 về tranh chấp Ly hôn, nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2022/QĐXX - ST ngày 28 tháng 6 năm 2022; giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hà Thị X, sinh năm 1994. Địa chỉ: Thôn N, xã Ngh, thị xã Ngh, tỉnh Y. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Hà Văn Ph, sinh năm 1994. Địa chỉ: Thôn N, xã Ngh, thị xã Ngh, tỉnh Y. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 20/4/2022 và các bản khai chị Hà Thị X trình bày: Chị và anh Hà Văn Ph kết hôn với nhau hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Nghĩa An ngày 10/2/2013. Sau khi kết hôn anh chị ở chung với gia đình chồng tại thôn N, xã Ngh, thị xã Nghĩa Lộ. Quá trình chung sống anh chị hòa thuận hạnh phúc được thời gian đầu sau đó phát sinh mâu thuẫn, lúc đầu chỉ là những mâu thuẫn nhỏ nên vợ chồng có xô sát với nhau nhưng thu xếp được. Những năm gần đây thì mâu thuẫn sảy ra nhiều và trầm trọng hơn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, ngoài ra anh Ph còn rượu chè bê tha gây sự với chị đôi bên lời qua tiếng lại không ai chịu nhường nhịn ai nên không khí gia đình không êm ấm hạnh phúc, chị xác định đã vài lần vợ chồng cãi nhau dẫn đến anh Ph đập phá đồ đạc trong nhà. Chị và gia đình đã tham gia khuyên bảo nhưng anh Ph không thay đổi mà ngày càng có nhiều lần cãi cọ nhau. Từ đầu năm 2022 anh chị mâu thuẫn trầm trọng nhất nên chị đã đưa con nhỏ về nhà ngoại ở. Anh chị sống ly thân với nhau, mỗi người một nơi sau đó anh Ph đi làm ăn xa. Chị X xác định giữa chị và anh Ph không còn tình cảm, yêu thương nhau nữa nên đề nghị tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Ph.

Về con chung: Chị và anh Ph có 02 con là Hà Hải Đ, sinh ngày 12/11/2013 và Hà Tố U, sinh ngày 10/3/2018, chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Un, anh Phường nuôi dưỡng cháu Đ, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Về tài sản: Chị X không đề nghị Tòa án giải quyết.

Để chứng minh cho yêu cầu của mình chị X đã nộp cho Tòa án chứng cứ: Bản chính giấy chứng nhận kết hôn số 01/2013 giữa chị và anh Ph, bản sao CMND của chị, Thông báo số định danh cá nhân của anh Ph và giấy khai sinh của cháu Đ, U.

Bị đơn anh Hà Văn Ph có văn bản trình bày: Anh và chị X đăng ký kết hôn vào năm 2013 tại UBND xã Ngh, sau khi kết hôn anh chị sống tại Thôn N1, xã Ngh, thị xã Nghĩa Lộ. Quá trình chung sống vợ chồng anh có thời gian đầu hòa thuận, tuy nhiên trong hôn nhân có sảy ra xô sát. Do điều kiện kinh tế nên anh đã đi làm ăn xa nhà sau khi vợ chồng mâu thuẫn. Việc chị X làm đơn ly hôn anh đồng ý ly hôn. Về con chung anh xác định có 02 con chung và có nguyện vọng được nuôi cháu Hà Hải Đ còn cháu Hà Tố U sẽ do chị X nuôi dưỡng. Anh Ph không đề nghị Tòa án phân chia về tài sản. Anh Ph đề nghị xin được vắng mặt tại Tòa án khi xét xử và vẫn giữ nguyên như ý kiến của mình.

Tòa án xác minh tại địa phương nơi chị X và anh Ph chung sống được thôn bản cho biết: Quá trình chung sống tại thôn N gia đình anh chị có sảy ra mâu thuẫn nhưng không biết cụ thể nguyên nhân là gì do anh chị không thông báo với thôn bản. Vào khoảng thời gian Tết nguyên đán năm 2022 anh chị có mâu thuẫn trầm trọng dẫn đến việc anh Ph đập phá tài sản, gây ồn ào mất trật tự thôn bản nên phải có người can ngăn. Anh chị hiện nay không sống cùng nhau, các con của anh chị đứa lớn ở với anh Ph sau đó anh Ph đi làm thì vẫn ở nhà với gia đình nội còn cháu bé thì ở với chị X.

Tòa án mở phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Ph không đến tham gia mặc dù có được tòa án thông báo hợp lệ. Chị X có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải do xác định vợ chồng không thể hòa giải được và yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết việc ly hôn, nuôi con chung.

Quá trình giải quyết vụ án anh Ph không đến Tòa án nhưng có ý kiến bằng văn bản gửi cho Tòa án nêu ý kiến quan điểm của mình và xin vắng mặt. Tại phiên tòa chị X vẫn giữ nguyên quan điểm như trong đơn khởi kiện. Hội đồng xét xử công bố lời khai và các văn bản có liên quan trong vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghĩa Lộ có quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng đảm bảo quy định của pháp luật. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX xử cho chị Hà Thị X được ly hôn anh Hà Văn Ph. Về con chung, xử giao con Hà Tố U cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng, giao con Hà Hải Đ cho anh Ph trực tiếp nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Tài sản các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Hà Thị X khởi kiện về ly hôn, nuôi con chung với anh Hà Văn Ph có hộ khẩu thường trú tại Thôn N, xã Ngh, thị xã Nghĩa Lộ. Theo quy định tại Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Nghĩa Lộ, quan hệ pháp luật tranh chấp là: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung. Quá trình giải quyết vụ án anh Ph không có mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, tòa án căn cứ vào quy định tại Điều 227 và 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về yêu cầu xin ly hôn:

Chị Hà Thị Xn và anh Hà Văn Ph kết hôn với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc, anh chị có đăng ký kết hôn tại UBND xã Nghĩa An, thị xã Nghĩa Lộ vào ngày 10/02/2013. Theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân gia đình thì quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Quá trình chung sống chị X cho rằng do anh Ph rượu chè bê tha, vợ chồng bất đồng quan điểm sống dẫn đến việc vợ chồng chung sống không hòa thuận hạnh phúc, mặc dù anh Ph không trình bày về lý do dẫn đến mâu thuẫn nhưng thừa nhận cuộc sống chung của vợ chồng có sảy ra xô sát, cãi nhau. Thôn bản nơi anh chị cư trú xác nhận anh chị có mâu thuẫn, anh Ph có hành vi đập phá đồ đạc tài sản trong gia đình gây ồn ào, mất trật tự thôn xóm. Sự xác nhận đó phù hợp với lời khai của chị X về nguyên nhân mâu thuẫn dẫn đến việc anh chị không chung sống cùng với nhau nữa, mỗi người một nơi. Cả anh Ph và chị X đều xác định vợ chồng không còn tình cảm với nhau nữa nên nhất trí ly hôn.

Như vậy, Hội đồng xét xử nhận định giữa chị X và anh Ph có mâu thuẫn với nhau trong thời kỳ hôn nhân, cả hai anh chị không còn yêu thương và tôn trọng nhau, không cùng nhau tạo dựng cuộc sống chung mà mỗi người tự lo cho cuộc sống riêng của mình. Do vậy đời sống hôn nhân của anh chị không có hạnh phúc, mục đích xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc không đạt được, vì vậy nên việc chị X làm đơn xin ly hôn với anh Ph là có cơ sở. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình thì yêu cầu xin ly hôn của chị X được chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị X và anh Ph có 02 con chung là Hà Hải Đg, sinh ngày 12/11/2013 và Hà Tố U, sinh ngày 10/3/2018. Nguyện vọng được nuôi con chung của chị X và anh Phg hoàn toàn phù hợp và thống nhất với nhau là cháu Hà Tố U sẽ ở với mẹ, còn cháu Hà Hải Đ sẽ ở với bố. Hội đồng xét xử thấy việc phân chia nuôi dưỡng và chăm sóc con chưa thành niên của anh chị hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định pháp luật cũng như nguyện vọng của con chung, anh chị có 02 con chung hiện nay mỗi bên đang nuôi 1 con ổn định. Vì vậy việc giao cho anh Ph nuôi cháu Đ, chị X nuôi cháu U cũng là phù hợp với điều kiện kinh tế và trách nhiệm nghĩa vụ của chung cha mẹ với con nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho con chung được quan tâm chăm sóc để con phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần. Việc cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn cả anh Ph và chị X không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản: Chị X và anh Phg đều không đề nghị tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Hà Thị X phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hà Thị X. Xử cho chị Hà Thị X được ly hôn anh Hà Văn Ph.

2. Giao con Hà Hải Đ, sinh ngày 12/11/2013 cho anh Hà Văn Ph trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Giao con Hà Tố U, sinh ngày 10/3/2018 cho chị Hà Thị X trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Ph và chị X không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con chung có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở quyền thăm nom con.

3. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Hà Thị Xn phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị X đã nộp 300.000đồng theo biên lai thu số AA/2021/0001148 ngày 20/4/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Nghĩa Lộ. Chị X đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị X có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Ph có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

69
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Nghĩa Lộ - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về