TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 320/2023/HC-PT NGÀY 12/05/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 12 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 57/2023/TLPT-HC ngày 06 tháng 02 năm 2023 về việc “Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 73/2022/HC-ST ngày 31 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 759/2023/QĐPT-HC ngày 19 tháng 4 năm 2023, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện:
1/ Bà Lê Thị Bạch T, sinh năm 1954 (có mặt)
2/ Ông Ngô Ngọc T1, sinh năm 1950 (xin vắng mặt) Cùng địa chỉ: Tổ 2, ấp Bãi T, xã Bãi T, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
- Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P, tỉnh Kiên Giang (xin vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Trần Quang L – Chức vụ:
Phó trưởng phòng Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố P (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Nguyễn Thị Cúc H, sinh năm 1955 (xin vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 2, ấp Bãi T, xã Bãi T, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
2/ Ông Nguyễn Duy Q, sinh năm 1965 (có mặt) Địa chỉ: Khu phố 9, phường Dương Đ, thành phố P, tỉnh Kiên Giang - Người kháng cáo: Người bị kiện là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố P.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, người khởi kiện bà Lê Thị Bạch T, ông Ngô Ngọc T1 và người đại diện trình bày:
Vợ chồng ông Ngô Ngọc T1, bà Lê Thị Bạch T có diện tích đất khoảng 5.000m2 tại ấp Bãi T, xã Bãi T, thành phố P, tỉnh Kiên Giang. Năm 1993, vợ chồng bà T có cho ông Nguyễn Duy Q mượn một phần đất để cất nhà ở tạm. Năm 1995, ông Q trả lại đất và yêu cầu bà T mua lại nhà nhưng vợ chồng bà T không mua.
Năm 1998, vợ chồng bà T cho bà Nguyễn Thị Cúc H mượn diện tích đất trước đây cho ông Q mượn, bà H đã mua lại căn nhà của ông Q chiều ngang 5m, dài cặp theo biển khoảng 8m.
Tháng 8/2006, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kiên Giang tiến hành đo đạc, lập hồ sơ kỹ thuật của gia đình bà T với diện tích thực tế 4.445,4m2. Thời điểm này bà H có mặt chứng kiến nhưng không có ý kiến gì.
Tháng 9/2009, bà H sửa chữa nhà và mở rộng chiếm thêm đất của gia đình bà T diện tích 426,3m2.
Không đồng ý nên vợ chồng bà T gửi đơn tranh chấp. Vụ việc được chính quyền địa phương hòa giải nhiều lần nhưng không T1.
Bà Nguyễn Thị Cúc H gửi đơn yêu cầu Uỷ ban nhân dân thành phố P giải quyết. Ngày 11/12/2019 Chủ tịch UBND huyện Phú Quốc (nay là thành phố P) ban hành Quyết định số 5780/QĐ-UBND giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Cúc H với bà Lê Thị Bạch T.
Nội dung Quyết định công nhận việc bà Nguyễn Thị Cúc H tranh chấp quyền sử dụng đất diện tích đất 106m2 với bà Lê Thị Bạch T, đất tọa lạc tại ấp Bãi T, xã Bãi T, thành phố P. Giữ nguyên diện tích đất 106m2 cho bà Nguyễn Thị Cúc H quản lý sử dụng.
Bà T, ông T1 cho rằng Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố P giải quyết tranh chấp giữa bà T với bà Nguyễn Thị Cúc H không đúng quy trình, không đúng thẩm quyền, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà T, ông T1 nên yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 5780/QĐ-UBND ngày 11/12/2019 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố P.
* Tại văn bản số 721/UBND-NCPC ngày 25/9/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, người bị kiện Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố P trình bày:
Nguồn gốc diện tích 106m2 đất tại ấp Bãi Thơm, xã Bãi Thơm, huyện Phú Quốc mà bà Nguyễn Thị Cúc H đang tranh chấp với bà Lê Thị Bạch T, trước năm 1992 ông Lê Xuân Tường vào phát dọn cất căn nhà tạm ở. Năm 1992, ông Tường chuyển nhượng nhà, đất cho ông Nguyễn Duy Q, ông Q sử dụng đến năm 1998 thì chuyển nhượng lại nhà, đất cho bà Nguyễn Thị Cúc H (việc chuyển nhượng hai bên viết giấy tay đề ngày 15/8/1998). Sau khi nhận chuyển nhượng, bà H vào sử dụng đến nay (qua làm việc ông Ngô Ngọc T1 là chồng bà Lê Thị BạchTuyết thừa nhận).
Ngày 12/3/2009, bà Nguyễn Thị Cúc H làm đơn xin sửa nhà và được UBND xã Bãi Thơm chấp thuận, bà H tiến hành sửa nhà thì gia đình bà Lê Thị Bạch T phát sinh tranh chấp với bà H.
Ngày 07/7/2009, UBND xã Bãi Thơm ra Thông báo số 38/TB-UBND về việc không thụ lý đơn tranh chấp quyền sử dụng đất của bà T với bà H, lý do: Phần đất trên không thuộc quyền sử dụng đất của bà T, đồng thời cho phép bà H được sửa lại căn nhà tạm.
Năm 2012, bà T làm đơn tranh chấp quyền sử dụng đất với bà H, vì bà T cho rằng phần diện tích tranh chấp là đất của gia đình bà khai khẩn vào năm 1987 đến năm 1992 cho ông Q mượn đất cất nhà (việc cho mượn chỉ nói miệng).
Ngày 10/5/2012, UBND xã Bãi Thơm tổ chức đo đạc xác định ranh giới theo Biên bản thỏa thuận giữa bà H và gia đình bà T, gia đình bà T thống nhất rút đơn không tranh chấp quyền sử dụng đất với bà H, bà T thống nhất giao đất theo hiện trạng đất bà H đang sử dụng. Đồng thời, bà T ký tên vào biên bản giao thực địa giữa bà T với bà H. Sau khi giao thực địa, bà T đăng ký đo đạc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 3.195,2m2 đất.
Ngày 07/6/2013, bà T được UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 354034, diện tích 3.195,2m2 (không có phần diện tích 106m2 đất trên) nên bà T phát sinh tranh chấp quyền sử dụng đất với bà H.
Ngày 09/5/2013, UBND xã Bãi Thơm tổ chức hòa giải và kết luận thừa nhận phần diện tích 106m2 đất nằm trong tổng số 426,3m2 đất theo biên bản đo đạc ngày 10/5/2012 là của bà Nguyễn Thị Cúc H đang sử dụng. Việc bà T khiếu nại không có cơ sở xem xét, kết luận hòa giải không T1.
Ngày 20/5/2013, bà Nguyễn Thị Cúc H làm đơn tranh chấp quyền sử dụng đất với bà Lê Thị Bạch T gửi đến Chủ tịch UBND huyện xem xét, giải quyết.
Ngày 11/12/2019, Chủ tịch UBND huyện Phú Quốc ban hành Quyết định số 5780/QĐ-UBND về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa bà Nguyễn Thị Cúc H với bà Lê Thị Bạch T tại ấp Bãi Thơm, xã Bãi Thơm, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Nội dung: Công nhận việc bà Nguyễn Thị Cúc H tranh chấp quyền sử dụng đất diện tích 106m² đất tại ấp Bãi Thơm, xã Bãi Thơm, huyện Phú Quốc với bà Lê Thị Bạch T; Giữ nguyên diện tích 106m² đất cho bà Nguyễn Thị Cúc H quản lý sử dụng.
Từ kết quả trên Chủ tịch UBND huyện Phú Quốc (nay là thành phố P) khẳng định Quyết định số 5780/QĐ-UBND về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa bà Nguyễn Thị Cúc H với bà Lê Thị Bạch T tại ấp Bãi Thơm, xã Bãi Thơm, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang là đúng quy định pháp luật, đề nghị Tòa án bác đơn khởi kiện của bà T, ông T1.
* Ngày 04/12/2020 bà Nguyễn Thị Cúc H có văn bản xác định:
Phần diện tích đất và nhà 106m2 tại ấp Bãi T, xã Bãi T, thành phố P mà bà T đang tranh chấp với bà H có nguồn gốc là do bà H nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Duy Q vào năm 1998. Hai bên có lập giấy mua bán đề ngày 15/8/1998. Sau khi nhận chuyển nhượng thì sử dụng ổn định cho đến nay.
Quyết định số 5780/QĐ-UBND ngày 11/12/2019 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố P giải quyết công nhận quyền sử dụng diện tích 106m2 cho bà H là đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của bà T, giữ nguyên Quyết định số 5780/QĐ-UBND.
Bà H yêu cầu giải quyết vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng cho đến khi giải quyết xong vụ kiện.
* Ngày 13/12/2020 ông Nguyễn Duy Q có văn bản trình bày ý kiến như sau:
Diện tích đất 106m2 tranh chấp giữa bà Nguyễn Thị Cúc H với bà Lê Thị Bạch T là do ông Q nhận chuyển nhượng của ông Lê Xuân Tường năm 1992. Đến năm 1998, ông Q chuyển nhượng lại cho bà H.
Quyết định số 5780/QĐ-UBND của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố P giải quyết công nhận quyền sử dụng đất diện tích 106m2 cho bà H là đúng quy định của pháp luật, đề nghị Tòa án bác đơn khởi kiện của bà T.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 73/2022/HC-ST ngày 31 tháng 5 năm 2022, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang đã quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Ngọc T1, bà Lê Thị Bạch T.
- Hủy Quyết định số 5780/QĐ-UBND ngày 11 tháng 12 năm 2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P, tỉnh Kiên Giang về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Cúc H với bà Lê Thị Bạch T tại ấp Bãi T, xã Bãi T, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
- Buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P giải quyết lại việc tranh chấp đất đai giữa bà Nguyễn Thị Cúc H với vợ chồng ông Ngô Ngọc T1, bà Lê Thị Bạch T theo đúng quy định của pháp luật.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 27/6/2022 Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố P kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P có văn bản xin vắng mặt và trình bày ý kiến vẫn giữ kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Bạch T và ông Ngô Ngọc T1.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện là ông Trần Quang L phát biểu ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P với lý do diện tích đất trong quá trình giải quyết tranh chấp có sự chênh lệch về số liệu là do 02 bên hướng dẫn chỉ ranh không đúng; trước đây việc đo đạc được thực hiện bằng dây, tính bằng phương pháp thủ công nhưng khi đo máy áp vào tọa độ thì có sự thay đổi diện tích, cách tính cũng khác. Biên bản hòa giải của xã Bãi Thơm chỉ xem xét có đủ điều kiện để giải quyết tranh chấp hay không chứ không giải quyết tranh chấp. Nếu các bên hòa giải thành thì Ủy ban nhân dân xã phải có báo cáo với Ủy ban nhân dân thành phố để ra quyết định công nhận nhưng Ủy ban nhân dân xã Bãi Thơm lại ra văn bản về việc các bên hòa giải thành là chưa đúng quy trình. Ngoài ra, khi giải quyết tranh chấp đất đai cần xem xét quá trình sử dụng đất của các bên như thế nào; thửa đất có thay đổi lớn hay không nhưng hồ sơ thể hiện, vị trí đất không thay đổi nên sai sót về đo đạc không ảnh hưởng lớn đến việc giải quyết tranh chấp.
Người khởi kiện là bà Lê Thị Bạch T không đồng ý kháng cáo của người bị kiện, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm bác kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Duy Q thống nhất với yêu cầu kháng cáo của người bị kiện, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Bạch T và ông Ngô Ngọc T1.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hành chính. Những người tham gia tố tụng đã thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định của pháp luật.
Về nội dung: bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, người bị kiện kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ nào mới chứng minh nên đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo và giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tòa án triệu tập hợp lệ, người khởi kiện là ông Ngô Ngọc T1, người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Cúc H, đều xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 225 Luật tố tụng hành chính, Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vụ án vắng mặt các đương sự này.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P xin vắng mặt và có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là ông Trần Quang L vẫn giữ kháng cáo cho rằng diện tích đất trong quá trình giải quyết tranh chấp có sự chênh lệch về số liệu là do 02 bên hướng dẫn chỉ ranh không đúng; trước đây việc đo đạc được thực hiện bằng dây, tính bằng phương pháp thủ công nhưng khi đo máy áp vào tọa độ thì có sự thay đổi diện tích, cách tính cũng khác. Biên bản hòa giải của xã Bãi Thơm chỉ xem xét có đủ điều kiện để giải quyết tranh chấp hay không chứ không giải quyết tranh chấp. Nếu các bên hòa giải thành thì Ủy ban nhân dân xã phải có báo cáo với Ủy ban nhân dân thành phố để ra quyết định công nhận nhưng Ủy ban nhân dân xã Bãi Thơm lại ra văn bản về việc các bên hòa giải thành là chưa đúng quy trình. Ngoài ra, khi giải quyết tranh chấp đất đai cần xem xét quá trình sử dụng đất của các bên như thế nào; thửa đất có thay đổi lớn hay không nhưng hồ sơ thể hiện, vị trí đất không thay đổi nên sai sót về đo đạc không ảnh hưởng lớn đến việc giải quyết tranh chấp.
[3] Xét các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án thể hiện:
[3.1] Năm 2012, bà Lê Thị Bạch T có đơn tranh chấp quyền sử dụng đất với bà Nguyễn Thị Cúc H đối với diện tích đất 106m² tại ấp Bãi Thơm, xã Bãi Thơm, huyện (nay là thành phố) Phú Quốc. Ngày 10/5/2012, Uỷ ban nhân dân xã Bãi Thơm tổ chức đo đạc xác định ranh giới. Theo Biên bản về việc đo đạc, xác định ranh giới theo thỏa thuận ngày 10/5/2012 của Uỷ ban nhân dân xã Bãi Thơm thể hiện: Hộ bà Lê Thị Bạch T và bà Nguyễn Thị Cúc H đã thống nhất ranh giới và đã được cán bộ giao mốc tại thực địa. Bà T đồng ý rút đơn tranh chấp với bà H. Bà T, bà H dựa trên thỏa thuận này để đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Kèm biên bản là sơ đồ đo đạc có chữ ký của các đương sự, theo đó bà T đồng ý giao cho bà H 426,3m2 đất, có ghi rõ tứ cận. Phần đất diện tích 426,3m2 cạnh giáp đất còn lại của bà T là 36,2m, chiều ngang sau 3,4m, dài giáp suối 35m, ngang trước 22m (chiều ngang sau là cạnh góc tù).
[3.2] Năm 2013, bà T đăng ký kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 354034 diện tích 3.195,2m2 (không bao gồm diện tích 106m2 đất đang tranh chấp). Tại bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 01/10/2012 của bà T đối với thửa 19 thể hiện: Cạnh giáp ranh với bà H ghi “đất tranh chấp”.
[3.3] Ngày 09/5/2013, Uỷ ban nhân dân xã Bãi Thơm lập biên bản hòa giải tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà T và bà H. Nội dung kết luận nêu: Thừa nhận diện tích 106,3m2 (nằm trong tổng số 426,3m2) theo biên bản đo thực địa ngày 10/5/2012 mà bà T khiếu nại là có cơ sở để xem xét, phù hợp theo quy định của pháp luật.
[3.4] Theo Biên bản đo đạc thửa đất tranh chấp ngày 30/7/2013 do Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố P lập thì thửa đất của bà H tại thời điểm này có chiều ngang sau là 6m (chiều ngang sau tăng 2,6m so với biên bản ngày 10/5/2012). Tuy nhiên, Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố P không đo tổng thể nên không xác định được tổng diện tích đất bà H đang sử dụng tại thời điểm năm 2013.
[3.5] Tại Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 09/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang thể hiện: Tổng diện tích đất bà H đang quản lý sử dụng 621,4m2, chiều ngang sau 4,17m, chiều dài giáp đất còn lại của bà T (không tính phần lấn ra bãi cát) là 35,82m. Vậy, nếu trừ phần tranh chấp với bà T thì phần đất bà H còn 518,6m2.
[4] Như vậy, phần diện tích bà H đang quản lý, sử dụng (theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án) lớn hơn phần diện tích mà bà T đồng ý cho bà H quản lý, sử dụng theo Biên bản về việc đo đạc, xác định ranh giới theo thỏa thuận ngày 10/5/2012. Tuy nhiên, khi giải quyết tranh chấp, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố P không đo đạc tổng thể diện tích đất bà H đang sử dụng, và thời điểm hiện nay hình thể thửa đất đã thay đổi nhiều so với thời điểm Uỷ ban nhân dân xã Bãi Thơm đo đạc năm 2012 nên không có cơ sở so sánh, để xem xét phần diện tích 106m2 đất đang tranh chấp là nằm trong hay ngoài diện tích 426,3m2 đất theo Biên bản thỏa thuận ngày 10/5/2012.
[5] Hơn nữa, nếu so với biên bản đo đạc ngày 10/5/2012 thì chiều ngang sau của thửa đất bà H đang quản lý tính theo đường vuông góc với cạnh chiều dài giáp đất còn lại của bà T đã dư 1,27m (3,4m tính theo đường góc tù). Nhưng Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố P không làm rõ lý do chiều dài và phần diện tích đất bà H quản lý sử dụng có sự thay đổi so với thời điểm lập biên bản thỏa thuận với bà T, mà đã xác định: Phần diện tích đất 106m2 đất nằm trong tổng số 426,3m2 theo biên bản đo đạc ngày 10/5/2012 là của bà Nguyễn Thị Cúc H là chưa đủ căn cứ và không phù hợp với nội dung biên bản hòa giải ngày 09/5/2013 của Uỷ ban nhân dân xã Bãi Thơm. Vì qua số liệu đo đạc của Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố P lập ngày 30/7/2013 thì đất bà H đang sử dụng chiều ngang sau là 6m, dư 2,6m so với biên bản thỏa thuận ngày 10/5/2012. Số liệu này đã chứng minh năm 2013 bà H sử dụng đất nhiều hơn như khi thỏa thuận năm 2012.
[6] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T, ông T1 là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu chứng cứ nào mới chứng minh nên bác kháng cáo và giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.
[7] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[8] Án phí hành chính phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P phải chịu, theo quy định về án phí, lệ phí của Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính, Áp dụng Điều 203 Luật Đất đai năm 2013, Luật Khiếu nại năm 2011; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Bác yêu cầu kháng cáo của người bị kiện là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố P; Giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm số 73/2022/HC-ST ngày 31/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang; Tuyên xử:
1 Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Ngọc T1, bà Lê Thị Bạch T.
- Hủy Quyết định số 5780/QĐ-UBND ngày 11 tháng 12 năm 2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P, tỉnh Kiên Giang về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Cúc H với bà Lê Thị Bạch T tại ấp Bãi T, xã Bãi T, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
- Buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P giải quyết lại việc tranh chấp đất đai giữa bà Nguyễn Thị Cúc H với vợ chồng ông Ngô Ngọc T1, bà Lê Thị Bạch T theo đúng quy định của pháp luật.
2. Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Án phí hành chính phúc thẩm: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố P phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số 0009820 ngày 18/7/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại tranh chấp quyền sử dụng đất số 320/2023/HC-PT
Số hiệu: | 320/2023/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 12/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về