Chào chị, Ban biên tập xin giải đáp như sau:
Tạm đình chỉ là một biện pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên trong quá trình xét xử, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án không phải là quyết định cuối cùng và có thể bị khiếu nại theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính được quy định tại Điều 141 Luật tố tụng hành chính 2015.
Theo đó, Tòa án quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng;
- Đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật;
- Đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà một trong các đương sự không thể có mặt vì lý do chính đáng, trừ trường hợp có thể xét xử vắng mặt đương sự;
- Cần đợi kết quả giải quyết của cơ quan khác hoặc kết quả giải quyết vụ việc khác có liên quan;
- Cần đợi kết quả giám định bổ sung, giám định lại; cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án;
- Cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản đó.
Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Như vậy, có 06 trường hợp cụ thể mà Tòa án có thể áp dụng biện pháp tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính.
Theo Điều 142 Luật tố tụng hành chính 2015 thì hậu quả của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy định như sau:
- Tòa án không xóa tên vụ án bị tạm đình chỉ giải quyết trong sổ thụ lý mà chỉ ghi chú vào sổ thụ lý số và ngày, tháng, năm của quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án đó để theo dõi.
- Khi lý do tạm đình chỉ quy định tại Điều 141 Luật tố tụng hành chính 2015 không còn thì Tòa án ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án và hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
- Tiền tạm ứng án phí, lệ phí mà đương sự đã nộp được xử lý khi Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án.
- Trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án vẫn phải có trách nhiệm về việc giải quyết vụ án.
Sau khi có quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 141 Luật tố tụng hành chính 2015, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc cơ quan, tổ chức, cá nhân khắc phục những lý do dẫn tới vụ án bị tạm đình chỉ trong thời gian ngắn nhất để kịp thời đưa vụ án ra giải quyết.
Trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án hành chính được quy định tại Điều 143 Luật tố tụng hành chính 2015.
Theo đó, Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong các trường hợp sau đây:
- Người khởi kiện là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản mà không có cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng;
- Người khởi kiện rút đơn khởi kiện trong trường hợp không có yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp có yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của người khởi kiện đã rút;
- Người khởi kiện rút đơn khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút đơn yêu cầu độc lập;
- Người khởi kiện không nộp tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của pháp luật.
Lưu ý: Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập mà không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Luật này thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu độc lập của họ;
- Người khởi kiện đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt trừ trường hợp họ đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hoặc trường hợp có sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan;
- Người bị kiện hủy bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện đồng ý rút đơn khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đồng ý rút yêu cầu;
- Thời hiệu khởi kiện đã hết;
- Các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 123 Luật tố tụng hành chính 2015 mà Tòa án đã thụ lý.
Khi ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, Tòa án trả lại đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ cho đương sự nếu có yêu cầu.
Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Như vậy, Tòa án có thể đình chỉ giải quyết vụ án hành chính trong các trường hợp người khởi kiện không còn quyền, nghĩa vụ tố tụng; rút đơn khởi kiện; không nộp tạm ứng chi phí tố tụng; vắng mặt không có lý do chính đáng; hoặc khi người bị kiện hủy bỏ quyết định hành chính bị khởi kiện và được sự đồng ý của người khởi kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; khi thời hiệu khởi kiện đã hết; hoặc thuộc các trường hợp thẩm phán trả lại đơn khởi kiện. Khi đình chỉ giải quyết vụ án, Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ cho đương sự nếu có yêu cầu và có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Theo Điều 144 Luật tố tụng hành chính 2015 thì hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án quy định như sau:
- Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án đó, nếu việc khởi kiện này không có gì khác với vụ án đã bị đình chỉ về người khởi kiện, người bị kiện và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các trường hợp bị đình chỉ theo quy định tại các điểm b, c và e khoản 1 Điều 123, điểm b và điểm đ khoản 1 Điều 143 Luật tố tụng hành chính 2015 và trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
- Tiền tạm ứng án phí, lệ phí mà đương sự đã nộp được xử lý theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.
Như vậy, khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án nếu không có gì khác với vụ án đã bị đình chỉ. Tiền tạm ứng án phí, lệ phí mà đương sự đã nộp trước khi xét xử vụ án có thể được hoàn trả hoặc trừ vào án phí, lệ phí cuối cùng theo kết quả xét xử.
Theo Điều 145 Luật tố tụng hành chính 2015 quy định thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định tiếp tục giải quyết vụ án, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án như sau:
- Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định tiếp tục giải quyết vụ án hoặc quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đó.
- Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày Thẩm phán ra một trong các quyết định quy định tại khoản 1 Điều Điều 145 Luật tố tụng hành chính 2015, Tòa án phải gửi quyết định đó cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
Như vậy, Thẩm phán có quyền quyết định tạm dừng, tiếp tục hay đình chỉ giải quyết vụ án hành chính mà mình được phân công. Tòa án phải gửi quyết định của thẩm phán cho đương sự và Viện kiểm sát trong vòng 03 ngày làm việc.