Bản án về hôn nhân và gia đình số 312/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 312/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/08/2022 VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 15 tháng 8 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 187/2022/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2022 về tranh chấp “Hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 7 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 41/2022/QĐST-HPT ngày 29 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Vương Duy K, sinh năm 19XX;

Nơi ĐKNKTT và ở: số X hẻm Y P M, tổ dân phố P L 4, phường M K, quận B T L, TP Hà Nội (Có mặt tại phiên tòa).

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị B, sinh năm 19XX;

Nơi ĐKNKTT: số X hẻm Y P M, tổ dân phố P L 4, phường M K, quận B T L, TP Hà Nội. Trú tại: số X ngách Y P M, tổ dân phố P L 3, phường M K, quận B T L, TP Hà Nội (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 20/5/2022 và các lời khai trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án nguyên đơn Anh Vương Duy K trình bày:

Anh Vương Duy K và chị Nguyễn Thị B có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn ngày 17/8/2011 tại UBND xã Minh Khai, huyện Từ Liêm, TP Hà Nội (Nay là phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội). Sau khi cưới, vợ chồng anh chung sống tại nhà bố mẹ anh tại tổ dân phố P L 4, phường M K, quận B T L, TP Hà Nội. Vợ chồng anh chung sống bình thường đến đầu năm 2022 thì mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng anh bất đồng quan điểm sống, Chị B thường xuyên đi đêm, không chăm lo gia đình, con cái, anh và gia đình có góp ý nhưng chị B không sửa đổi. Vợ chồng anh thường xuyên cãi nhau và chị B đã bỏ về nhà mẹ đẻ tại tổ dân phố P L 3, phường M K, quận B T L, TP Hà Nội sống từ đó cho đến nay. Vợ chồng anh sống ly thân từ đầu năm 2022 cho đến nay. Anh xác định không còn tình cảm và không thể sống chung với chị B nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị B.

Về con chung: Vợ chồng anh, chị có 03 con chung là cháu Vương Bảo Ngọc Linh N, sinh ngày 05/9/20XX; cháu Vương Thị Huyền T, sinh ngày 16/3/20XX và cháu Vương Thị Khánh Q, sinh ngày 10/10/20XX. Chị B bỏ về nhà mẹ đẻ sống để anh nuôi cả 3 con chung, hiện các cháu đều đang sống cùng anh. Nguyện vọng của anh khi ly hôn là anh sẽ nuôi cả 3 con chung và không yêu cầu chị B cấp dưỡng nuôi con. Hiện anh đang làm tại Công ty Thuận Phong, thu nhập khoảng 9 triệu đồng/tháng. Về chỗ ở sau ly hôn, bố mẹ anh sẽ hỗ trợ về chỗ ở và tạo mọi điều kiện tốt nhất để anh chăm sóc các con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh và chị B không có gì nên không yêu cầu Tòa giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ chị Nguyễn Thị B nhưng chị B không lên Tòa án làm việc.

Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn anh Vương Duy K vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và đề nghị Tòa án xử cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị B và xin nuôi 3 con chung là cháu Vương Bảo Ngọc Linh N, sinh ngày 05/9/20XX; cháu Vương Thị Huyền T, sinh ngày 16/3/20XX và cháu Vương Thị Khánh Q, sinh ngày 10/10/20XX. Anh không yêu cầu chị B phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Bị đơn chị Nguyễn Thị B không có mặt tại phiên tòa nên không có ý kiến.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm phát biểu ý kiến:

- Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm đưa vụ án ra xét xử thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của Điều 48 Bộ luật tố tụng Dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án tại phiên tòa: Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Các quy định về phiên tòa, thủ tục bắt đầu phiên tòa, tranh tụng đều được Hội đồng xét xử thực hiện theo đúng quy định tại Chương 14 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn thực hiện đúng, bị đơn không thực hiện các quy định tại Điều 70, 71, 72, 234 của Bộ luật tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của mình.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

+ Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Vương Duy K với chị Nguyễn Thị B;

+ Giao 03 con chung là cháu Vương Bảo Ngọc Linh N, sinh ngày 05/9/20XX; cháu Vương Thị Huyền T, sinh ngày 16/3/20XX và cháu Vương Thị Khánh Q, sinh ngày 10/10/20XX cho anh Vương Duy K nuôi dưỡng, chị Nguyễn Thị B không phải cấp dưỡng nuôi con chung;

+ Tài sản chung, công nợ chung: Không;

+ Án phí: Anh Vương Duy K phải chịu án ly hôn sơ thẩm phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ các tài liệu, chứng cứ, lời trình bày của các đương sự và ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Anh Vương Duy K và chị Nguyễn Thị B đăng ký kết hôn ngày 17/8/2011 tại UBND xã Minh Khai, huyện Từ Liêm, TP Hà Nội (Nay là phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội) có tìm hiểu, có tự nguyện, do đó đây là hôn nhân hợp pháp. Chị Nguyễn Thị B đang cư trú tại địa chỉ tổ dân phố P L 3, phường M K, quận B T L, TP Hà Nội nên thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc về Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm theo quy định tại Điều 28, khoản 1 điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự.

- Về việc xét xử vắng mặt bị đơn là chị Nguyễn Thị B: Chị Nguyễn Thị B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa mà không có lý do. Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị B.

[2] Về nội dung:

Về tình cảm: Anh Vương Duy K và chị Nguyễn Thị B đăng ký kết hôn ngày 17/8/2011 tại UBND xã Minh Khai, huyện Từ Liêm, TP Hà Nội (Nay là phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội) do đó đây là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng anh K và chị B chung sống bình thường đến đầu năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn. Theo anh K trình bày thì nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung. Chị B thường xuyên đi đêm, không chăm lo, quan tâm đến chồng con. Tòa án đã triệu tập chị B lên Tòa làm việc để hòa giải mâu thuẫn vợ chồng nhưng chị B không có mặt, cũng không đưa ra được biện pháp để vợ chồng đoàn tụ.

Tổng hợp các lời khai, chứng cứ mà các đương sự nêu ra và căn cứ vào kết quả xác minh tại chính quyền địa phương nơi cư trú cung cấp: “Về mâu thuẫn cụ thể của vợ chồng anh Vương Duy K và chị Nguyễn Thị B địa phương không nắm được cụ thể vì vợ chồng anh chị không hòa giải qua tổ dân phố. Chị B không sống cùng chồng mà về nhà mẹ đẻ sống từ đầu năm 2022 cho đến nay”, Hội đồng xét xử nhận thấy: Anh K và chị B là vợ chồng nhưng tình cảm vợ chồng không còn, không cùng nhau hướng tới xây dựng cuộc sống chung, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Anh K xin ly hôn với chị B là có căn cứ nên căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh K đối với chị B.

Về con chung: Anh Vương Duy K và chị Nguyễn Thị B có 03 con chung là cháu Vương Bảo Ngọc Linh N, sinh ngày 05/9/20XX; cháu Vương Thị Huyền T, sinh ngày 16/3/20XX và cháu Vương Thị Khánh Q, sinh ngày 10/10/20XX. Hiện các con chung đang ở cùng với anh K. Khi ly hôn, anh K mong muốn được nuôi dưỡng cả 03 con chung, không yêu cầu chị B cấp dưỡng nuôi con chung. Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã yêu cầu các đương sự cung cấp các tài liệu chứng cứ về điều kiện nuôi con tuy nhiên chị B không cung cấp. Hội đồng xét xử thấy rằng anh K đang ở ổn định cùng với các con chung trên đất của gia đình anh K. Để đảm bảo quyền lợi của con chung, căn cứ vào điều kiện nuôi dưỡng cụ thể, điều kiện nuôi con của anh K tốt hơn và để các cháu ổn định nơi ăn ở, học tập nên giao cháu N, cháu T và cháu Q cho anh K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của con chung muốn sống cùng bố. Về việc cấp dưỡng nuôi con, anh K không yêu cầu chị B phải cấp dưỡng nuôi con nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với chị B là phù hợp với quy định của pháp luật. Chị B được quyền gặp gỡ, chăm sóc và giáo dục con chung mà không ai được ngăn cản.

Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự xác định không có gì chung và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này.

Về án phí: Anh Vương Duy K phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 144; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc xin ly hôn của anh Vương Duy K đối với chị Nguyễn Thị B.

2. Anh Vương Duy K được ly hôn với chị Nguyễn Thị B.

3. Về con chung: Anh Vương Duy K và chị Nguyễn Thị B có 03 con chung. Giao con chung của anh chị là cháu Vương Bảo Ngọc Linh N, sinh ngày 05/9/20XX; cháu Vương Thị Huyền T, sinh ngày 16/3/20XX và cháu Vương Thị Khánh Q, sinh ngày 10/10/20XX cho anh Vương Duy K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với chị Nguyễn Thị B.

Chị Nguyễn Thị B có quyền gặp gỡ, chăm sóc và giáo dục con chung mà không ai được ngăn cản.

4. Về tài sản chung, nợ chung: Anh K và chị B xác định không có và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về án phí: Anh Vương Duy K phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Anh K đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2020/004355 ngày 01/6/2022 của Chi cục thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội nay được chuyển thành án phí.

Án xử công khai, sơ thẩm. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về hôn nhân và gia đình số 312/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:312/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về