Bản án về đòi lại tài sản quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03/2020/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN CANH, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 03/2020/DS-ST NGÀY 12/02/2020 VỀ ĐÒI LẠI TÀI SẢN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 12 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 03/2015/TLST-DS ngày 06 tháng 01 năm 2015 về việc tranh chấp “Đòi lại tài sản quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận QSD đất”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2019/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 11 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 03/2020/QĐST-DS ngày 16/01/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Sô Y Thị T sinh năm 1940 Người đại diện theo ủy quyền: Anh Sô Y L, sinh năm 1982, có mặt Đồng địa chỉ: Làng C, xã C1, huyện V, tỉnh B

2. Bị đơn: Anh Đinh Văn V, sinh năm 1977, vắng mặt Địa chỉ: Làng H, xã C2, huyện V, tỉnh B 3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Sô Y L, sinh năm 1982, có mặt

+ Chị Trần Thị H, sinh năm 1980 Đồng địa chỉ: Làng C, xã C1, huyện V, tỉnh B (Chị Trần Thị H ủy quyền cho anh Sô Y L tham gia tố tụng tại Tòa theo giấy ủy quyền ngày 11/7/2019)

+ Chị Đinh Thị L, sinh năm 1981, vắng mặt Địa chỉ: Làng H, xã C2, huyện V, tỉnh B

+ Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1963, vắng mặt

+ Bà Bùi Thị T1, sinh năm 1962, vắng mặt Đồng địa chỉ: Khu phố T1, thị trấn V, huyện V, tỉnh B

+ Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh B. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Bá Đ - Phó Chủ tịch UBND huyện V, vắng mặt.

Địa chỉ: Khu phố T 2, thị trấn V, huyện V, tỉnh B

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 05/11/2014, bản tự khai ngày 19/7/2019, biên bản hòa giải ngày 25/10/2019 và trong quá trình xét xử, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - Anh Sô Y L trình bày:

Ngày 09/12/2009, bà T được UBND huyện V giao quyền sử dụng đối với diện tích 91.761,5m2 đất rừng sản xuất thuộc thửa đất số 2, tờ bản đồ 26, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành AO 147990. Trước khi bà T được cấp giấy chứng nhận QSD đất, bà T và vợ chồng anh L đã khai hoang diện tích đất đó và tiến hành trồng cây keo trên đất, sau đó bà T mới làm đơn xin giao đất và cấp giấy chứng nhận QSD đất. Trong quá trình phát dọn đất để trồng keo, không có ai đến tranh chấp đất với bà T và vợ chồng anh L. Đến tháng 7/2014, sau khi thu hoạch cây keo, bà T và vợ chồng anh L phát dọn đất để trồng lại vụ keo mới thì anh Đinh Văn V ở làng H đã tự ý đem cây giống vào trồng trên diện tích 13.745 m2 đất của gia đình bà T. Bà T đã làm đơn báo cáo xã C1 đề nghị giải quyết. UBND xã Canh H đã nhiều lần phối hợp với UBND xã C mời anh V đến giải quyết nhưng không thành vì anh V cho rằng diện tích đất anh V đang trồng cây keo là đất cà thân khai hoang trước đây nên anh có quyền sử dụng đất này và không chịu trả đất lại cho bà T. Hiện tại cây keo trồng trên đất khoảng 5 năm tuổi và anh V, chị L đã bán cho bà T1, ông T. Nay anh L yêu cầu Tòa giải quyết buộc vợ chồng anh V, chị L phải trả lại cho bà T 13.745 m2 đất mà anh V, chị Lg đã lấn chiếm và buộc vợ chồng bà T, ông T1 khai thác cây keo trồng trên đất tranh chấp để trả đất cho bà T.

* Tại biên bản lấy lời khai ngày 24/7/2019, biên bản hòa giải ngày 25/10/2019 bị đơn - anh Đinh Văn V và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với bị đơn là chị Đinh Thị L trình bày:

Phần diện tích đất hiện nay bà Tôm và vợ chồng anh V, chị L đang tranh chấp có nguồn gốc là đất do vợ chồng anh V, chị L khai hoang năm 1997. Sau khi khai hoang, gia đình anh V, chị L trồng cây mì trên đất được một năm, đến năm 1998 anh V, chị L khai hoang thêm đất trên giông cao để trồng mì và lúa đến năm 2003. Từ năm 2004 thì bỏ hoang nên trên đất cây tự nhiên đã mọc lại thành rừng cà thân. Anh L và bà T vào đất của vợ chồng anh V, chị L phát dọn và trồng keo, vợ chồng anh V, chị L phát hiện có tới gặp anh L hỏi thì anh L nói anh L lỡ trồng keo rồi nên cho anh L làm một mùa keo, khai thác xong sẽ trả lại đất cho vợ chồng anh V, chị L. Nhưng khi anh L, bà T khai thác keo xong thì không trả lại đất cho vợ chồng anh V, chị L mà chuẩn bị trồng mùa keo mới. Vợ chồng anh V, chị L hỏi thì anh L nói ai trồng keo trước thì người đó được sử dụng đất nên vợ chồng anh V, chị L đã trồng keo trên đất đó, cụ thể diện tích bao nhiêu vợ chồng anh V, chị L không biết. Đất chưa được nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ anh V, cây keo trồng trên đất vợ chồng anh V đã bán cho bà Bùi Thị T ở thị trấn V với số tiền là 30.000.000đ, thời hạn khai thác là năm 2021, khai thác keo xong sẽ trả đất lại cho vợ chồng anh V.

Nay bà T yêu cầu vợ chồng anh V, chị L trả lại cho bà T 13.745 m2 đất mà vợ chồng anh V đã trồng keo, vợ chồng anh V không đồng ý vì đất này do vợ chồng anh V khai hoang. Anh V yêu cầu Tòa hủy một phần Giấy chứng nhận QSD đất với diện tích 13.745 m2 mà UBND huyện V cấp cho bà Tvà yêu cầu UBND huyện V cấp phần diện tích đất đó cho gia đình anh V.

* Tại bản tự khai ngày 20/10/2019, biên bản hòa giải ngày 25/10/2019 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Vợ chồng bà Bùi Thị T1, ông Nguyễn Thanh T đồng trình bày:

Ngày 07/8/2014, vợ chồng bà T1, ông T có lập hợp đồng mua bán cây keo với vợ chồng anh V, chị L ở làng H với số tiền là 30.000.000đ, thời gian thu hoạch trả đất tháng 9/2021. Khi mua keo vợ chồng bà T1, ông T không biết đất trồng keo là đất bà T anh L đang tranh chấp với anh V, đến khi Tòa án thông báo thì vợ chồng bà T1, ông T mới biết. Bà T1, ông T trình bày trường hợp Tòa án giải quyết diện tích đất trên thuộc quyền sử dụng của ai thì ông, bà sẽ khai thác cây keo để trả lại đất cho người đó.

* Tại văn bản cung cấp thông tin vụ án và trong đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, người đại diện theo ủy quyền của UBND huyện V trình bày:

Bà Sô Y Thị T được UBND huyện V cấp giấy chứng nhận QSD đất tại thửa đất số 2, tờ bản đồ số 26 (cấp theo dự án WB3), ngày 09/12/2009, có số phát hành AO 147990, diện tích 91.761,5m2, loại đất rừng sản xuất. Việc UBND huyện V cấp giấy chứng nhận QSD đất cho bà Sô Y Thị T thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật tại thời điểm cấp giấy chứng nhận QSD đất cho hộ gia đình. Việc ông Nguyễn Trọng H – Phó Chủ tịch UBND Huyện ký giấy chứng nhận QSD đất cho bà Sô Y Thị T là đúng thẩm quyền theo quyết định số 905/QĐ-UBND ngày 28/11/2006 của UBND về việc phân công thành viên UBND nhiệm kỳ 2004-2009. Đề nghị Tòa án căn cứ các chứng cứ mà UBND huyện V và cơ quan chuyên môn của UBND huyện đã cung cấp giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

* Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh:

Về thủ tục tố tụng: Từ khi nhận đơn khởi kiện cho đến khi nghị án, Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án, xác định đúng quan hệ pháp luật và tư cách tham gia tố tụng, nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng, bị đơn thực hiện không đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vụ án được Tòa án thụ lý trước ngày 01/7/2016 nhưng ngày 14/10/2019 bị đơn mới có đơn phản tố yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận QSD đất và Tòa án mới ra thông báo thụ lý yêu cầu phản tố nên thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định theo quy định tại khoản 4 Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, tại phiên tòa bị đơn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu phản tố của bị đơn.

Về nội dung: Diện tích đất tranh chấp giữa bà Sô Y Thị T và anh Đinh Văn V có nguồn gốc trước đây là đất do UBND xã C1 quản lý, không có ai sử dụng. Lời khai của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người có uy tín trong làng H đều thừa nhận anh V có canh tác nhưng không ổn định, liên tục và họ đều cho rằng mảnh đất khai hoang, canh tác tọa lạc tại làng Hn, xã C2. Căn cứ Giấy chứng nhận QSD đất số AO 147990, ngày 09/12/2009 cấp cho bà Tôm, bản đồ địa chính và công trình xây dựng ngày 08/11/2019 của Hội đồng định giá thì thửa đất số 02, tờ bản đồ số 26 tọa lạc tại làng C, xã C1. Đất tranh chấp đã được UBND huyện V cấp cho bà Sô Y Thị T. Việc UBND huyện V cấp đất cho bà T là đúng thẩm quyền và không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của anh V. Anh V không cung cấp được chứng cứ nào khác chứng minh mảnh đất đã được UBND huyện V cấp cho bà T là của vợ chồng anh V. Khi phát hiện anh L, bà T canh tác trồng keo trên đất nhưng anh V, chị L cũng không làm đơn khiếu nại, khởi kiện yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết. Việc anh V, chị L tự ý đem cây keo trồng trên đất đã được UBND huyện V cấp cho bà T khi chưa được sự đồng ý của bà T đã xâm phạm quyền về tài sản của người khác nên bà T làm đơn khởi kiện đòi lại tài sản của mình là có căn cứ. Căn cứ quy định tại Điều 163, 166, 186 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về cây keo trồng trên đất: Số cây keo trồng trên đất anh V, chị L đã bán cho bà Bùi Thị T1 vào năm 2014. Tại bản tự khai và biên bản hòa giải vợ chồng bà T1 trình bày trường hợp Tòa giải quyết diện tích đất trên thuộc quyền sử dụng của người nào thì vợ chồng bà T1 sẽ khai thác cây keo trả lại đất cho người đó. Đây là ý chí tự nguyện của đương sự nên đề nghị HĐXX ghi nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Căn cứ đơn khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Tòa án xác định quan hệ pháp luật là “Đòi lại tài sản quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” theo quy định tại khoản 2 Điều 26, Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ khoản 2 mục IV Giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì đối với các vụ án Tòa án cấp huyện đã thụ lý trước ngày 01/7/2016, nhưng kể từ ngày 01/7/2016 mới phát sinh yêu cầu hủy quyết định cá biệt của Ủy ban nhân dân cấp huyện thì Tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý vụ án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không chuyển cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết. Như vậy, việc Tòa án nhân dân huyện Vân Canh thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 34, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn anh Đinh Văn V và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Đinh Thị L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt họ.

[3] Xét yêu cầu của bà Sô Y Thị T về việc buộc anh V, chị L trả lại cho hộ bà Tôm 13.745 m2 đất mà anh V, chị L đã lấn chiếm, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[3.1] Căn cứ hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSD đất của bà Sô Y Thị T, biên bản xác minh, biên bản kiểm tra xác định trạng thái thực bì tại vùng đề nghị quy hoạch dự án phát triển ngành lâm nghiệp (WB3) năm 2009 tại xã C1 và chứng cứ do UBND xã C1; UBND huyện V cung cấp thể hiện phần diện tích đất tranh chấp giữa bà Sô Y Thị T và vợ chồng anh Đinh Văn V, chị Đinh Thị L có nguồn gốc trước khi UBND huyện V cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T thì phần diện tích đất đó do Ủy ban nhân dân xã C1 quản lý và không có ai sử dụng, là đất rừng có trạng thái thực bì Ib, thực vật phân bố chủ yếu là cỏ tranh, lau, lách, cây bụi. Năm 2009, thực hiện chủ trương giao đất cho dân trồng rừng theo dự án WB3 tại địa bàn xã C1, bà Sô Y Thị T tiến hành khai hoang 91.761,5m2 đất rồi làm đơn xin giao đất và cấp giấy chứng nhận QSD đất. Ngày 28/11/2009, Trung tâm quy hoạch nông nghiệp và nông thôn thuộc Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh B lập hồ sơ thiết kế - dự toán trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng dự án WB3 năm 2009 của bà Sô Y Thị T, đến ngày 09/12/2009, bà Sô Y Thị T được UBND huyện V giao quyền sử dụng đối với diện tích 91.761,5m2 đất rừng sản xuất thuộc thửa đất số 02, tờ bản đồ 26, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 147990. Trong quá trình gia đình bà T phát dọn đất để trồng keo, anh V, chị L không có đơn khiếu nại, tranh chấp đất với gia đình bà T. Đến năm 2014, gia đình bà T khai thác cây keo trên đất, tiến hành đốt dọn thực bì mua cây giống chuẩn bị trồng lại cây keo con trên đất thì anh V, chị L vào lấn chiếm đất trồng cây keo trên đất cấp cho bà T với diện tích là 13.745 m2.

[3.2] Tại các biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải anh V, chị L đều cho rằng phần diện tích đất tranh chấp có nguồn gốc là đất của anh V, chị L khai hoang nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận QSD đất. Anh V, chị L thừa nhận sau khi khai hoang đất, vợ chồng anh V, chị L không sử dụng đất ổn định liên tục mà chỉ sử dụng được một thời gian rồi bỏ hoang từ năm 2003 và trên đất cây tự nhiên đã mọc lại thành rừng. Lời khai của anh V, chị L phù hợp với lời khai của anh Đinh Văn D, ông Đoàn Văn Đ và ông Đinh Văn Ch là người có uy tín trong làng H về việc phần diện tích đất tranh chấp anh V, chị L đã bỏ hoang từ năm 2004, đến năm 2009 bà T, anh L trồng keo thì xảy ra tranh chấp. Ngoài lời khai về nguồn gốc đất là do vợ chồng anh V khai hoang mà có, thì vợ chồng anh V không cung cấp được chứng cứ nào khác để chứng minh về nguồn gốc đất, không cung cấp được các loại giấy tờ để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 Luật Đất đai năm 2003. Anh V, chị L cho rằng, khi phát hiện anh L trồng cây keo trên đất của mình trước đó đã khai hoang, anh, chị có đến gặp anh L hỏi lý do vì sao trồng cây keo trên đất của anh V chị L, thì anh L có hứa với anh V, chị L là để cho anh L trồng 01 vụ keo, khi nào khai thác xong thì anh L trả lại đất cho anh V, chị L nhưng anh L không thừa nhận là có hứa trả lại đất cho anh V, chị L như nội dung anh V, chị L trình bày. Anh V, chị L cũng không cung cấp được chứng cứ để chứng minh nội dung thỏa thuận trên.

[3.3] Căn cứ Biên bản định giá tài sản, bản đồ địa chính và công trình xây dựng trích đo diện tích đất tranh chấp thể hiện diện tích đất tranh chấp 13.745 m2 giữa bà T và anh V, chị L nằm trong phần diện tích 91.761,5m2 đất rừng sản xuất thuộc thửa đất số 2, tờ bản đồ 26, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 147990, ngày 09/12/2009 cấp cho bà Sô Y Thị T. Việc Uỷ ban nhân dân huyện V cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Sô Y Thị T là đúng thẩm quyền và không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ chồng anh V, chị L. Như vậy, việc bà T khởi kiện yêu cầu anh V, chị L phải trả lại cho bà T 13.745 m2 đất anh V, chị L đã lấn chiếm là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 163, 166, 186 Bộ luật Dân sự; Điều 5, khoản 1 Điều 10, khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về cây keo trồng trên đất: Quá trình giải quyết vụ án, anh V, chị L và bà T1, ông T xác nhận số cây keo trên đất anh V, chị L đã bán cho bà T, ông T vào năm 2014. Tại bản tự khai, biên bản hòa giải và trong đơn yêu cầu xét xử vắng mặt bà Tâm, ông T trình bày trường hợp Tòa giải quyết diện tích đất trên thuộc quyền sử dụng của ai thì bà T1, ông T sẽ khai thác cây keo để trả lại đất cho người đó. Đây là ý chí tự nguyện của bà T, ông T nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Xét yêu cầu phản tố của anh Đinh Văn V, Hội đồng xét xử nhận định: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, bị đơn anh V có làm đơn yêu cầu phản tố, yêu cầu Tòa án giải quyết hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 147990, ngày 09/12/2009 cấp cho bà Sô Y Thị T. Tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay, bị đơn vắng mặt không có lý do thì bị coi là từ bỏ yêu cầu phản tố. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu phản tố của bị đơn. Bị đơn có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu phản tố đó theo quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Anh V được miễn tiền án phí sơ thẩm vì gia đình thuộc diện hộ nghèo.

[7] Về chi phí tố tụng khác: Tổng số tiền định giá tài sản là 1.600.000đ (Một triệu sáu trăm nghìn đồng). Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là anh Sô Y L tự nguyện chịu số tiền trên và đã nộp chi phí định giá xong nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của anh L.

[8] Xét các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 26; Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39; Điều 144, 147, 165, 166, 200 và điểm c khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 163, 166 và 186 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 5, khoản 1 Điều 10, Điều 50 và Điều 52 của Luật Đất đai năm 2003; Căn cứ Điều 12, 14 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Sô Y Thị T. Buộc vợ chồng anh Đinh Văn V, chị Đinh Thị L phải trả lại cho bà Sô Y Thị T 13.745 m2 đất mà anh V, chị L đã lấn chiếm thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 147990, ngày 09/12/2009 cấp cho bà Sô Y Thị T (Có bản đồ địa chính và công trình xây dựng kèm theo).

2. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Bùi Thị T1, ông Nguyễn Thanh T về việc tự nguyện khai thác cây keo trồng trên diện tích 13.745 m2 đất tranh chấp để trả lại đất cho bà Sô Y Thị T.

3. Đình chỉ yêu cầu phản tố của anh Đinh Văn V về việc yêu cầu Tòa án giải quyết hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 147990, ngày 09/12/2009 mà UBND huyện V cấp cho bà Sô Y Thị T. Anh V có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu phản tố đó theo quy định của pháp luật.

4. Về án phí: Anh Đinh Văn V được miễn tiền án phí sơ thẩm vì gia đình thuộc diện hộ nghèo.

5. Về chi phí tố tụng khác: Ghi nhận sự tự nguyện của anh Sô Y L về việc chịu chi phí định giá tài sản với số tiền là 1.600.000đ (Một triệu sáu trăm nghìn đồng). Anh L đã nộp chi phí định giá xong.

6. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

87
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về đòi lại tài sản quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03/2020/DS-ST

Số hiệu:03/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Canh - Bình Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về