Bản án 95/2017/HS-PT ngày 15/12/2017 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 95/2017/HS-PT NGÀY 15/12/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 15 tháng 12 năm 2017 tại Hội trường Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 90/2017/HSPT ngày 25 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Tấn P do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 29/2017/HSST ngày 19 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ.

- Bị cáo có kháng cáo: NGUYỄN TẤN P (X)

Sinh năm 1995 tại tỉnh Bến Tre. Nơi cư trú: Ấp V, xã L, huyện Đ, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Út E; tiền án: Không, tiền sự: Có 01 tiền sự. Tại Quyết định số: 22/QĐ-XPHC ngày 20/8/2015 của Công an xã L, huyện Đ, tỉnh Bến Tre xử phạt 750.000 đồng về hành vi gây mất trật tự công cộng; bị bắt tạm giam ngày 20/7/2017 cho đến nay. Có mặt.

- Người bị hại có liên quan đến kháng cáo: Ông Nguyễn Minh D, sinh năm: 1985; nơi cư trú: ấp x, xã L, huyện Đ, tỉnh Bến Tre. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 03 tháng 5 năm 2017, Nguyễn Tấn P điều khiển xe môtô hiệu Wave, biển số 71K1-xxxx đến nhà ông Nguyễn Văn Q (Sinh năm: 1950; trú tại ấp R, xã L, huyện Đ) để tìm con của ông Q là Nguyễn Trần Văn Minh T để giải quyết mâu thuẫn trước đó. Khi đến nơi, P gặp mẹ của Minh T là bà Trần Thị R. Bà R nói với P là Minh T không có ở nhà. Nghe vậy, P bỏ đi ra xe môtô của mình.

Tuy nhiên, Nguyễn Minh D từ phía sau nhà đi lên, vừa đi theo P vừa hỏi: Có phải mày là người đâm Minh T hôm trước không. Đồng thời, theo phần trình bày của P thì anh D dùng tay đánh nhiều cái vào phía sau P, tuy nhiên anh D phủ nhận vấn đề này. Ngay lúc này, P đi đến xe môtô của mình dùng tay trái lấy một con dao loại rọc giấy để sẵn trên xe và xoay người lại đâm vào bụng của D gây thương tích. Lúc này, em và anh của D là Minh T và Nguyễn Văn P từ trong nhà chạy ra thì P bỏ xe lại và chạy bộ khỏi nhà ông Q. Khi đuổi theo P không được, Minh T quay trở lại dùng một khúc cây đập vào xe môtô của P ba cái làm xe bị hư hỏng nhẹ.

Sau khi chạy khỏi hiện trường, P đã vứt con dao dùng để đâm D xuống con kênh gần nhà ông Q. Công an xã L đã tiến hành truy tìm con dao trên nhưng không tìm được.

Tại Bản kết luận giám định pháp y số 166-617/TgT ngày 30/6/2017 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Bến Tre kết luận Nguyễn Minh D có các vết thương như sau:

- Vết thương vùng hạ sườn phải dài 03cm thấu vào ổ bụng;

- Phẫu thuật mở bụng, thủng gan phải một đường dài 03cm; Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích là: 35%.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2017/HSST ngày 19-9-2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn P (X) phạm “Tội cố ý gây thương tích”.

Áp dụng khoản 3 (thuộc điểm a khoản 1) Điều 104; điểm b, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn P (X) 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/7/2017.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29-9-2017 bị cáo kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt tù.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung Bản án sơ thẩm và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau: Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo gửi đến Tòa án trong thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 234 của Bộ luật Tố tụng hình sự nên được Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý, giải quyết là phù hợp. Về nội dung: Bị cáo dùng dao là hung khí nguy hiểm đâm người bị hại với tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích là 35%, hành vi phạm tội của bị cáo là xâm hại đến sức khỏe của người bị hại, gây mất trật tự an toàn xã hội. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn P phạm “Tội cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 3 (thuộc điểm a khoản 1) Điều 104 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, về hình phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc, tại cấp phúc thẩm bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới là nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ số tiền 25.000.000 đồng để bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248; điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt của bị cáo; sửa Bản án sơ thẩm. Áp dụng khoản 3 (thuộc điểm a khoản 1) Điều 104; điểm b, p khoản 1 Điều 46; Điều 47; Điều 33 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn P từ 04 năm tù đến 04 năm 06 tháng tù về “Tội cố ý gây thương tích”. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Bị cáo phát biểu ý kiến: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Người bị hại phát biểu ý kiến: Yêu cầu Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Tấn P khai nhận hành vi gây thương tích cho người bị hại Nguyễn Minh D phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, thể hiện: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 03/5/2017, tại nhà ông Nguyễn Văn Q ở ấp R, xã L, huyện Đ, tỉnh Bến Tre, bị cáo Nguyễn Tấn P đã dùng dao rọc giấy là hung khí nguy hiểm đâm vào bụng anh Nguyễn Minh D gây thương tích. Tại Bản kết luận giám định pháp y số 166-617/TgT ngày 30/6/2017 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Bến Tre kết luận tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích của Nguyễn Minh D là 35%. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn P phạm “Tội cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung tăng nặng “dùng hung khí nguy hiểm” theo quy định tại khoản 3 (thuộc điểm a khoản 1) Điều 104 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tấn P yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định bị cáo khai là người bị hại có đánh bị cáo nhưng người bị hại không thừa nhận, cũng không có chứng cứ nào khác để chứng minh là người bị hại có đánh bị cáo, vì vậy Hội đồng xét xử sơ thẩm suy đoán có lợi cho bị cáo là người bị hại có đánh bị cáo nên không áp dụng tình tiết “có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 104 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất của vụ án, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng như: bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật Hình sự; trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, tác động gia đình bồi thường cho người bị hại số tiền 28.736.000 đồng; đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm b, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo 05 năm tù. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, xâm hại đến sức khỏe của người bị hại, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo có nhân thân không tốt; ngày 06/8/2015 bị Công an huyện Đ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; có 01 tiền sự, vào ngày 20/8/2015 bị Công an xã L, huyện Đ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi gây mất trật tự công cộng. Tuy nhiên; thấy rằng bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích có khung hình phạt theo quy định tại khoản 3 Điều 104 của Bộ luật Hình sự, tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích của người bị hại là 35%, sau khi gây thương tích cho người bị hại bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại do sức khỏe bị xâm phạm với số tiền 28.736.000 đồng; trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm bị cáo nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ số tiền 25.000.000 đồng để tiếp tục bồi thường thiệt hại cho người bị hại, điều đó đã minh chứng bị cáo thật sự ăn năn hối cải và có thiện chí tích cực bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Xét thấy tại cấp phúc thẩm bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới nên cần áp dụng thêm Điều 47 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, vì vậy quyết định của Bản án sơ thẩm về phần hình phạt là có phần nghiêm khắc đối với bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo và sửa Bản án sơ thẩm về phần hình phạt, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp.

[3] Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, sửa Bản án sơ thẩm là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

[4] Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, gia đình bị cáo Nguyễn Tấn P có nộp tại Cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ tổng số tiền 25.000.000 đồng theo các biên lai thu tiền số 0001440 ngày 17/11/2017 và số 0001428 ngày 09/10/2017 để đảm bảo thi hành án nên được Hội đồng xét xử phúc thẩm ghi nhận để làm cơ sở cho Cơ quan Thi hành án dân sự thi hành án theo thẩm quyền.

[5] Về án phí: Căn cứ vào Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc. Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 248; điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Tấn P; sửa Bản án sơ thẩm số: 29/2017/HSST ngày 19-9-2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bến Tre về phần quyết định hình phạt đối với bị cáo. Áp dụng khoản 3 (thuộc điểm a khoản 1) Điều 104; điểm b, p khoản 1 Điều 46; Điều 47; Điều 33 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn P (X) 04 (Bốn) năm tù về “Tội cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày 20/7/2017.

2. Về án phí: Căn cứ vào Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Áp dụng Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Bị cáo Nguyễn Tấn P không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

421
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 95/2017/HS-PT ngày 15/12/2017 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:95/2017/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về