Bản án 94/2018/HS-ST ngày 04/06/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H- TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 94/2017/HS-ST NGÀY 04/06/2017 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 04 tháng 6 năm 2018 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 85/2018/TLST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2018/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2018 đối với các bị cáo:

1.Hoàng Văn N. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 22/10/1990. Nơi cư trú: ĐKHKTT: Thôn 2, xã D, huyện H, tỉnh Quảng Ninh. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12. Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hoàng Văn Đ- sinh năm 1962 và bà: Nguyễn Thị M-  sinh năm 1962. Vợ con: Chưa  có; Tiền án, tiền sự: Chưa. Bị bắt ngày 03/02/2018, tạm giữ đến ngày 09/02/2018 thay thế biện pháp ngăn chặn, hiện tại ngoại, có mặt tại phiên toà.

2.Triệu Quý M. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 10/5/1991. Nơi cư trú: ĐKHKTT: Thôn Đ, xã S, huyện H, tỉnh Quảng Ninh. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12. Dân tộc: Dao; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Bá D- sinh năm 1969 và bà: Triệu Thị P- sinh năm 1971. Vợ con : Chưa có; Tiền án, tiền sự: Chưa. Bị bắt ngày 03/02/2018, tạm giữ đến ngày 09/02/2018 thay thế biện pháp ngăn chặn, hiện tại ngoại, có mặt tại phiên toà.

*Bị hại: 1. Đỗ Thị X- sinh năm 1982.

2.Nguyễn Văn T- sinh năm 1982

Cùng ĐKHKTT: Tổ 5B khu 2 phường H, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh 

Chị X có mặt tại phiên toà, anh T có đơn xin xử vắng mặt.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1. Đỗ Văn C- sinh năm 1958. Nơi ĐKHKTT: Tổ 1B, khu 7, phường B, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh- vắng mặt tại phiên tòa.

2.Lê Văn K- sinh năm 1982. Nơi ĐKHKTT: Thôn P, xã Q, huyện Ư, thành phố Hà Nội- vắng mặt tại phiên tòa.

3.Đoàn Thị Y- sinh năm 1984. Nơi ĐKHKTT: Tổ 3 khu 2, Thị trấn T, huyện H, tỉnh Quảng Ninh- vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 01/01/2018 đến 10/01/2018, tại tổ 5B khu 2 phường H, thành phố H, Hoàng Văn N và Triệu Quý M đã lợi dụng sự tin tưởng của chị Đỗ Thị X và anh Nguyễn Văn T giao cho sử dụng 02 xe mô tô Attila và Sirius, quản lý xưởng cơ khí Minh Tuấn, N và M đã đem 02 xe mô tô nói trên đi cầm cố lấy tiền ăn tiêu và lấy tài sản của xưởng gồm 02 máy hàn, 01 bộ dây cấp máy hàn đem bán lấy tiền ăn tiêu. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt trị giá 29.645.000đồng.

Tại bản cáo trạng số 89/KSĐT-HS ngày 04/5/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố bị cáo Hoàng Văn N và Triệu Quý M về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" theo điểm a khoản 1 điều 175 BLHS.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 điều 175 BLHS; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, điều 17, điều 58 BLHS xử phạt bị cáo Hoàng Văn N từ  09-12 tháng tù, Triệu Quý M từ 09-12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án. Buộc bị cáo Hoàng Văn N và Triệu Quý M phải  nộp lại số tiền 6.400.000đồng thu lời bất chính và liên đới trả lại số tiền 1.380.000 đồng cho chị Đoàn Thị Y và 1.570.000đồng cho ông Đỗ Văn C.

Bị cáo Hoàng Văn N và Triệu Quý M khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, cụ thể: Bị cáo và Triệu Quý M đều làm thuê cho xưởng cơ khí Minh Tuấn của vợ chồng anh Nguyễn Văn T và chị Đỗ Thị X và được anh T, chị X giao chìa khóa cho quản lý xưởng và giao cho 01 xe mô tô Attila biển kiểm soát 14S1-1300 và 01 xe mô tô Sirius biển kiểm soát 14K4-8403 để đi lại. Ngày 31/12/2017, M và N mượn xe Attila của anh T, chị X để đi về nhà ở huyện H nghỉ Tết dương lịch. Đến 21 giờ cùng ngày, N và M đến hát karaoke tại quán Gia Đức do chị Đoàn Thị Y làm chủ, đến 02 giờ ngày 01/01/2018, do không có tiền trả tiền hát nên M và N để xe Attila lại quán làm tin, sau đó về nói dối anh T, chị X là xe bị công an giao thông giữ. Đến ngày 06/01/2018 N xin anh T tạm ứng trước 2.000.000đồng tiền lương để đi nộp phạt lấy xe về, nhưng không đi chuộc xe mà đi chơi điện tử. Đến 19 giờ cùng ngày, N gặp M đang điều khiển xe Sirius (của anh T), cả hai đã cùng đi ăn và hát karaoke tại quán “phòng trà Q” do ông Đỗ Văn  C làm chủ hết 2.000.000đồng.

Do không đủ tiền thanh toán nên N trả trước cho chủ quán 500.000đồng và để xe Sirius lại làm tin. Do không có tiền để chuộc 02 chiếc xe mô tô và trả nợ nên N và M bàn nhau về xưởng cơ khí Minh Tuấn lấy đồ đem bán. Do được giao quản lý xưởng nên N và M đã dùng chìa khóa xưởng mở cửa lấy đi 01 máy hàn nhãn hiệu Jasic Mig 250F màu cam, 01 máy hàn nhãn hiệu Weldcom Arc màu xanh, 01 bộ dây cấp máy hàn nhãn hiệu Jasic ZK76ZY01 đem bán cho cửa hàng điện  máy Hoa  Khiêm được  6.400.000đồng. Số tiền này  N chia  cho  M 2.900.000đồng, N giữ 3.500.000đồng, sau đó cả hai đến quán Gia Đức thanh toán tiền nợ và chuộc xe Attila về, tiếp tục đi chơi điện tử. Khoảng 21 giờ ngày 09/01/2018, N và M quay lại quán hát Gia Đức để hát đến 01 giờ ngày 10/01/2018 và tiếp tục cắm xe Attila lại quán hát vì không đủ tiền trả tiền hát và bỏ đi không quay về xưởng cơ khí làm việc. Đến ngày 03/02/2018 N bị chị X bắt gặp đưa đến công an trình báo. Ngày 08/02/2018 M ra đầu thú.

Bị hại Nguyễn Văn T và Đỗ Thị X khai phù hợp lời khai của các bị cáo về việc có thuê Hoàng Văn N và Triệu Quý M làm thuê tại xưởng cơ khí Minh Tuấn của anh chị tại tổ 5B khu 2 phường H, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh. Khi làm việc, anh chị thống nhất cho N, M ở tại xưởng nên đã giao chìa khóa xưởng và 02 xe máy Attila, Sirius cho N, M làm phương tiện đi lại. Ngày 03/01/2018 N báo xe Attila bị công an giao thông giữ và anh T đã ứng trước 2.000.000đồng tiền lương để N đi nộp phạt. Đến ngày 07/01/2018 anh đến xưởng thì thấy cửa không khóa, kiểm tra trong xưởng mất 02 máy hàn, 01 bộ dây cấp máy hàn và 01 xe máy Sirius, anh T có nghi ngờ cho N, M nhưng gọi điện không liên lạc được và cũng không thấy N, M trở lại làm việc nên đã trình báo công an. Tại phiên tòa, chị X xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Đỗ Văn C, Đoàn Thị Y khai nhận các bị cáo N, M có đến hát tại quán Gia Đức và Phòng trà Q vào các ngày 31/12/2017; ngày 06/01/2018 và ngày 09/01/2018, do không đủ tiền trả tiền hát nên đã để xe máy Attila biển kiểm soát 14S1-1300 và xe Sirius biển kiểm soát 14K4-8403 lại để làm tin, khi nào đủ tiền sẽ quay lại thanh toán và lấy xe. Sau này, biết xe do các bị cáo chiếm đoạt của người khác nên bà Y và ông C đã giao nộp lại xe cho công an.

Ông Lê Văn  K là chủ cửa hàng điện máy Hoa Khiêm xác nhận ngày 08/01/2018 có mua của 02 thanh niên (sau này biết là bị cáo N, M) 02 máy hàn và một bộ dây cấp máy hàn, tổng giá tiền 6.400.000đồng, ông không biết số tài sản trên do phạm tội mà có.

Kết luận định giá số 20 ngày 07/02/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố H đã kết luận: 01 máy hàn nhãn hiệu Jasic Mig 250F màu cam trị giá tại thời điểm bị xâm phạm là 12.510.000đồng, 01 máy hàn nhãn hiệu Weldcom Arc màu xanh trị giá tại thời điểm bị xâm phạm là 4.275.000đồng, 01 bộ dây cấp máy hàn nhãn hiệu Jasic trị giá tại thời điểm bị xâm phạm là 2.760.000đồng, xe mô tô Attila biển kiểm soát 14S1-1300 trị giá 5.500.000đồng; xe mô tô Sirius biển kiểm soát 14K4-8403 trị giá 4.600.000đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Tại phiên toà, các bị cáo Hoàng Văn N, Triệu Quúy M khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và phù hợp với nhau về việc do cần tiền tiêu xài nên đã lợi dụng sự tin tưởng của chủ xưởng cơ khí nơi các bị cáo làm thuê để chiếm đoạt tài sản gồm 02 xe máy, 02 máy hàn và 01 bộ dây cấp máy hàn. Đây là những tài sản mà các bị cáo được chủ xưởng cơ khí giao cho các bị cáo quản lý, sử dụng để làm việc trong quá trình lao động làm thuê tại xưởng cơ khí Minh Tuấn. Các bị cáo thừa nhận có sự bàn bạc khi thực hiện hành vi cắm xe máy tại quán khi nợ tiền hát, bàn bạc về lấy máy hàn đem bán lấy tiền tiêu xài và cùng hưởng lợi nhuận từ việc bán tài sản đã chiếm đoạt được, cụ thể bị cáo N hưởng 3.500.000đồng, bị cáo M hưởng 2.900.000đồng, các bị cáo đã tiêu xài hết số tiền trên.

Xét thấy lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng, trên cơ sở kết quả định giá của Hội đồng định giá, thấy có đủ cơ sở kết luận: Từ ngày 01/01/2018 đến ngày 10/01/2018, Hoàng Văn N và Triệu Quý M đã lợi dụng việc được giao quản lý, sử dụng tài sản để đem bán  02 máy hàn và 01 bộ dây cấp máy hàn và đem cầm cố 02 xe mô tô của anh Nguyễn Văn T và chị Đỗ Thị X lấy tiền tiêu xài cá nhân, sau đó bỏ trốn. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt trị giá 29.645.000đồng.

Hành vi của các bị cáo Hoàng Văn N, Triệu Quý M đã phạm tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 175 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét thấy hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới quyền sở hữu, quản lý và sử dụng tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật, nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi, nhìn thấy trước hậu quả xảy ra là không có khả năng thu hồi tài sản trả cho bị hại nhưng chỉ vì ăn chơi đua đòi, lười lao động nên đã cố ý thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác đem bán, cầm cố lấy tiền tiêu xài cá nhân. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với chính những người chủ sử dụng lao động, trực tiếp tạo công ăn việc làm chân chính cho các bị cáo, hơn nữa sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã bỏ trốn khỏi nơi làm việc, cắt đứt liên lạc với bị hại để xin lỗi và khắc phục hậu quả, thể hiện ý thức đạo đức kém, cần thiết phải lên án. Hành vi phạm tội của các bị cáo không những gây thiệt hại về kinh tế mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó phải xử lý nghiêm khắc để đảm bảo cho việc cải tạo, giáo dục các bị cáo.

[2]. Xét tính chất, vai trò của các bị cáo, thấy: Các bị cáo đồng phạm có tính chất giản đơn, vai trò ngang nhau, cùng bàn bạc, cùng thực hiện và cùng hưởng lợi [3]. Các tình tiết giảm nhẹ: Xét các bị cáo đều có thái độ khai báo thành khẩn, được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51BLHS. Bị cáo M sau khi phạm tội đã ra đầu thú nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 điều 51BLHS.

Tình tiết tăng nặng: Trong khoảng thời gian từ 01/01/2018 đến 10/01/2018, các bị cáo liên tục nhiều lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản có giá trị trên 4.000.000đồng nên còn phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 điều 52 BLHS.

[4]. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều đảm bảo khách quan, đúng quy  định của pháp luật.

[5]. Về phần bồi thường dân sự và vật chứng của vụ án: Bị hại anh Nguyễn Văn T và chị Đỗ Thị X đã nhận lại toàn bộ tài sản, không yêu cầu bồi thường. Ông Đỗ Văn C và bà Đoàn Thị Y yêu cầu các bị cáo phải trả lại số tiền hát karaoke còn nợ, cụ thể ông C đòi 1.570.000đồng, bà Y đòi 1.380.000đồng nên cần buộc các bị cáo liên đới trả số tiền trên cho ông C và bà Y, cụ thể, mỗi bị cáo phải trả 1.475.000đồng. Ông Lê Văn K không yêu cầu đối với số tiền 6.400.000đồng, nhưng xét thấy đây là số tiền thu lời bất chính cần buộc các bị cáo nộp lại sung quỹ, cụ thể bị cáo N nộp lại 3.500.000đồng, bị cáo M nộp 2.900.000đồng. 

Về hình phạt bổ sung là hình phạt tiền: xét các bị cáo hoàn cảnh khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 175 BLHS ; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52, điều 58 BLHS.

Tuyên bố: Hoàng Văn N, Triệu Quý M phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt: Hoàng Văn N 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

Triệu Quý M 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

Áp dụng điểm b khoản 1 điều 47 BLHS; điểm b khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, buộc bị cáo Hoàng Văn N nộp lại 3.500.000đồng (ba triệu năm trăm nghìn đồng), bị cáo Triệu Quý M nộp 2.900.000đồng(hai triệu chín trăm nghìn đồng) sung ngân sách nhà nước.

Áp dụng khoản 1 điều 48 BLHS 2015, buộc các bị cáo Hoàng Văn N, Triệu Quý M phải liên đới trả cho ông Đỗ Văn C số tiền 1.570.000đồng(một triệu năm trăm bảy mươi nghìn đồng) và bà Đoàn Thị Y 1.380.000đồng(một triệu ba trăm tám mươi nghìn đồng), cụ thể mỗi bị cáo phải trả 1.475.000đồng (một triệu bốn trăm bảy lăm nghìn đồng).

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và khi có đơn yêu cầu thi hành án, trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo quy định tại khoản 2 điều 357 Bộ luật dân sự 2015.

Áp dụng điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. Buộc các bị cáo Hoàng văn N, Triệu Quý M mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Các bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 94/2018/HS-ST ngày 04/06/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:94/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về