Bản án 85/2018/DS-ST ngày 13/11/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 85/2018/DS-ST NGÀY 13/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 11 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 175/2013/TLST-DS  ngày 28/3/2013  theo  Quyết  định  đưa  vụ  án  ra xét  xử số 146/2018/QĐXX-ST ngày 20/9/2018, giữa các đương sự: Nguyên đơn: Hồ Thị Thanh S, sinh năm 1964; Địa chỉ: đường M, phường M, thành phố T, tỉnh Phú Yên. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Bị đơn: Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1975; Địa chỉ: nn/nn đường N, phường B, thành phố T, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Đặng Minh H, sinh năm 1968; Địa chỉ: nn/nn đường N, phường B, thành phố T, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ kèm theo nguyên đơn Hồ Thị Thanh S trình bày: Ngày 25/8/2011, nguyên đơn Hồ Thị Thanh S cho bị đơn Nguyễn Thị Ngọc H vay số tiền 3.900.000 đồng, thoả thuận lãi 7%/ngày, không hẹn thời gian trả nợ. Hai bên có viết giấy nhận nợ, trong đó có nội dung nếu bị đơn không trả đủ nợ gốc và lãi cho nguyên đơn thì người bảo lãnh Đặng Minh H có trách nhiệm trả nợ thay. Từ ngày vay cho đến nay, bị đơn không trả tiền gốc và lãi theo như thỏa thuận nên nguyên đơn yêu cầu Tòa buộc bị đơn và người có quyền lợi,  nghĩa  vụ  liên  quan  trả  nợ  cho  nguyên  đơn  3.900.000  đồng,  lãi  suất  là 1,125%/tháng; Tại biên bản giao nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu đối với sô tiền gốc và yêu cầu tiền lãi tính theo quy định pháp luật.

Bị đơn Nguyễn Thị Ngọc H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đặng Minh H vắng mặt nên không có lời trình bày.

Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa đã tiến hành hòa giải và kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng do bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn có yêu cầu giải quyết vắng mặt; bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuy Hòa phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn, bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt phải chịu hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 471; Điều 474; Điều 476 của Bộ luật Dân sự năm 2005, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hồ Thị Thanh S; Buộc bị đơn Nguyễn Thị Ngọc H phải trả cho nguyên đơn Hồ Thị Thanh S 3.900.000 đồng tiền gốc và tiền lãi theo mức lãi suất 1,125%/tháng tính từ ngày bị đơn vi phạm thời hạn trả nợ (ngày 26/8/2011) đến ngày Tòa xét xử sơ thẩm (ngày 13/11/2018). Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Hoàn lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn.

Nguyên đơn Hồ Thị Thanh S có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt; bị đơn Nguyễn Thị Ngọc H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đặng Minh H được triệu tập hợp lệ để xét xử nhưng vắng mặt nên căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng:

 [1.1] Nguyên đơn Hồ Thị Thanh S khởi kiện yêu cầu bị đơn Nguyễn Thị Ngọc H phải trả nợ vay là tranh chấp về hợp đồng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên theo quy định tại khoản 3 Điều 26; Điều 35 của Bộ luật tố tụng Dân sự.

 [1.2] Đơn khởi kiện của nguyên đơn đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ của bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng qua xác minh tại địa phương, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mặc dù vẫn có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ trên nhưng đã bỏ đi khỏi địa phương 04 năm nay. Bị đơn không thông báo cho nguyên đơn biết về nơi cư trú mới của mình. Do vậy, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thay đổi nơi cư trú mà không thông báo cho nguyên đơn biết về nơi cư trú theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ- HĐTP ngày 05 tháng 05 năm 2017 hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 của Hội đồng thẩm phán TANDTC nên thuộc trường hợp bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ, Tòa án vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

 [2] Xét yêu cầu đòi nợ gốc của nguyên đơn: Đối với giấy nhận nợ vay tiền ngày 25/8/2011, bị đơn Nguyễn Thị Ngọc H vay của nguyên đơn Hồ Thị Thanh S với số tiền 3.900.000 đồng, thoả thuận lãi 7%/ngày, được người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đặng Minh H bảo lãnh. Từ ngày vay cho đến nay, bị đơn chưa trả khoản tiền gốc nào cho nguyên đơn. Vì vậy, xét yêu cầu của nguyên đơn đòi bị đơn phải trả số tiền gốc là 3.900.000 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 474 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền gốc là 3.900.000 đồng.

 [3] Đối với yêu cầu tính lãi của nguyên đơn theo quy định pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy: Tại giấy nhận nợ vay tiền ngày 25/8/2011, các đương sự thỏa thuận về việc trả lãi nhưng mức lãi suất 7%/ngày là vượt quá quy định tại khoản 1 Điều 476 của Bộ luật Dân sự 2005. Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả lãi suất theo quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận mức lãi suất bằng 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố là 9%/năm x 150%  =  13,5%/năm  =  1,125%/tháng  (Quyết  định  số  2868/QĐ-NHNN  ngày 29/11/2010), thời gian tính lãi được tính từ ngày bị đơn vi phạm thời hạn trả nợ (ngày 26/8/2011) đến ngày Tòa xét xử sơ thẩm (ngày 13/11/2018) là 86 tháng 17 ngày x 3.900.000 đồng x 1,125%/tháng = 3.798.112 đồng.

 [4] Như vậy, bị đơn Nguyễn Thị Ngọc H phải trả cho nguyên đơn Hồ Thị Thanh  S  số  tiền  7.698.112  đồng, trong  đó  tiền  gốc  3.900.000  đồng, tiền  lãi 3.798.112 đồng.

 [5] Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Đặng Minh H phải trả cho nguyên đơn số tiền 7.698.112 đồng, trong đó tiền gốc 3.900.000 đồng, tiền lãi 3.798.112 đồng nếu bị đơn không thanh toán được cho nguyên đơn số tiền này.

 [6] Về án phí: Bị đơn Nguyễn Thị Ngọc H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn lại cho nguyên đơn Hồ Thị Thanh S tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Các Điều 471; Điều 474; Điều 476; Điều 361; Điều 305 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05 tháng 05 năm 2017 hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 của BLTTDS 2015 của Hội đồng thẩm phán TANDTC.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Hồ Thị Thanh S, buộc bị đơn Nguyễn Thị Ngọc H phải trả cho nguyên đơn Hồ Thị Thanh S tổng số tiền 7.698.112 đồng (Bảy triệu sáu trăm chín mươi tám nghìn một trăm mười hai đồng), trong đó tiền gốc 3.900.000 đồng, tiền lãi 3.798.112 đồng.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Đặng Minh H phải trả cho nguyên đơn số tiền 7.698.112 đồng, trong đó tiền gốc 3.900.000 đồng, tiền lãi 3.798.112 đồng nếu bị đơn không thanh toán được cho nguyên đơn số tiền này.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, bị đơn còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quá hạn do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố là 1,125%/tháng tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành xong.

Về án phí: Áp dụng vào Điều 27 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/2/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án; Bị đơn

Nguyễn Thị Ngọc H phải chịu 384.905 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho nguyên đơn Hồ Thị Thanh S 117.000 đồng tại biên lai thu tiền số AA/2010/10486 ngày 22/3/2013 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn; bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 85/2018/DS-ST ngày 13/11/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:85/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về