Bản án 83/2020/DS-ST ngày 01/04/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 83/2020/DS-ST NGÀY 01/04/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 01 tháng 4 năm 2020, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 465/2019/TLST-DS ngày 12 tháng 9 năm 2019 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2020/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 02 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2020/QĐST-DS ngày 16 tháng 3 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần T Địa chỉ: đường N, Phường M, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông M, trú tại: đường N, Phường M, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Văn bản ủy quyền số 2077/2019/UQ-TTT ngày 05 tháng 11 năm 2019) có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông K, sinh năm: 1967 Địa chỉ: đường C, Phường D, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 19 tháng 8 năm 2019 của Ngân hàng Thương mại Cổ phần T và quá trình giải quyết vụ án Ông M là người đại diện của nguyên đơn trình bày: Giữa Ngân hàng Thương mại Cổ phần T và Ông K có giao kết hợp đồng tín dụng (theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 07/8/2010 kèm Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng Thương mại Cổ phần T) với mục đích tiêu dùng cá nhân, cụ thể: Loại thẻ: Master, số thẻ: 512341-0483. Hạn mức tín dụng là: 10.000.000 đồng. Lãi suất áp dụng:

1%/tháng theo thông báo của Ngân hàng Thương mại Cổ phần T áp dụng đối với cán bộ nhân viên tập đoàn Sacombank. Lãi suất quá hạn bằng 150% của lãi suất trong hạn. Lãi được tính trên từng giao dịch phát sinh theo từng ngày và theo lãi suất Ngân hàng áp dụng vào từng thời điểm khác nhau (Điều 22 của Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng Thương mại Cổ phần T). Khách hàng phải chịu các khoản phí theo quy định trong Điều 24 Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng, chi tiết lãi, phí trong sao kê tóm tắt.

Quá trình sử dụng thẻ, kể từ ngày kích hoạt thẻ đến nay, K đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền 59.255.000 đồng và K đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 61.205.000 đồng (thứ tự thanh toán căn cứ theo Điều 20 Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng), sau đó không tiếp tục thanh toán. Ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc, nhắc nợ nhưng K không thực hiện việc trả nợ. Do K vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ gốc 11.336.278 còn thiếu sang nợ quá hạn kể từ ngày 23/5/2017. Nay Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín khởi kiện yêu cầu Ông K có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín số tiền tạm tính đến ngày 01/4/2020 (ngày xét xử sơ thẩm) là 17.259.338đ (Mười bảy triệu hai trăm năm mươi chín ngàn ba trăm ba mươi tám) đồng, trong đó nợ gốc: 11.336.278 đồng, tiền lãi quá hạn: 5.923.060 đồng và tiếp tục thanh toán tiền lãi phát sinh từ ngày 02/4/2020 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại hợp đồng.

Bị đơn Ông K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần tự khai và hai lần thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và xét xử nhưng K vắng mặt nên không có lời khai tại Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Từ khi Tòa án nhân dân quận Tân Bình thụ lý vụ án đến nay, trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về thời hạn chuẩn bị xét xử, Tòa án có vi phạm Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự, tuy nhiên vi phạm này không làm thay đổi bản chất vụ án, không làm ảnh hưởng đến tính khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác khi giải quyết vụ án nên Viện kiểm sát chỉ kiến nghị để Tòa án rút kinh nghiệm.

Về việc giải quyết vụ án: Nhận thấy yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần T là có cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc Ông K có trách nhiệm trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần T số tiền nợ gốc 11.336.278 đồng và tiền lãi phát sinh theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng Thương mại Cổ phần T khởi kiện yêu cầu Ông K trả tiền nợ gốc và lãi theo hợp đồng tín dụng đã ký kết. Do đó đây là tranh chấp hợp đồng tín dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn có nơi cư trú tại địa chỉ đường C, Phường D, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

[1.2] Ông M là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Ông K (là bị đơn trong vụ án, không có yêu cầu phản tố) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt Ông M và Ông K.

[1.3] Về việc tham gia phiên tòa của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình: Trong vụ án này Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ bằng hình thức xác minh nơi cư trú của bị đơn. Theo quy định tại khoản 2 Điều 21 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và hướng dẫn tại khoản 1 Điều 7 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 01/8/2012 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao, trường hợp này Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình phải tham gia phiên tòa theo quy định.

[2] Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 07/8/2010 được các bên giao kết tại thời điểm Bộ luật dân sự năm 2005 đang có hiệu lực thi hành. Tại điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có hiệu lực thì việc áp dụng pháp luật được quy định như sau: c) Giao dịch dân sự được thực hiện xong trước ngày Bộ luật này có hiệu lực mà có tranh chấp thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 để giải quyết”. Theo khoản 1 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì“Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực. Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp quy định của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó”. Như vậy, khi giải quyết vụ án này cần phải áp dụng Bộ luật dân sự năm 2005 để giải quyết cho phù hợp. Việc áp dụng về thời hiệu cũng như nghĩa vụ trả nợ nếu có sẽ được áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2017 để giải quyết.

[3] Về yêu cầu của nguyên đơn, Hội đồng xét xử XÉT THẤY

[3.1] Theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty cổ phần, mã số doanh nghiệp: 0301103908, đăng ký lần đầu: Ngày 13 tháng 01 năm 1992 và đăng ký lần cuối cùng: Ngày 26 tháng 01 năm 2018 thì Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín là tổ chức tín dụng. Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín và Ông K đã giao kết hợp đồng tín dụng (theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 07/8/2010). Tại thời điểm giao kết, chủ thể tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện, có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự. Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và phù hợp với ngành nghề đăng ký kinh doanh của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín. Hình thức hợp đồng được lập bằng văn bản nên được xác định là hợp pháp, có hiệu lực kể từ thời điểm hợp đồng được giao kết, là căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên theo quy định tại Điều 405 của Bộ luật dân sự năm 2005.

[3.2] Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của đại diện của nguyên đơn, thể hiện giữa Ngân hàng Thương mại Cổ phần T và Ông K có giao kết Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 07/8/2010 (kèm Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng Thương mại Cổ phần T). Theo đó, Ngân hàng Thương mại Cổ phần T đã cấp cho K thẻ tín dụng loại thẻ Master, số thẻ: 512341-0483 với hạn mức tín dụng là:

10.000.000 đồng, mục đích để tiêu dùng cá nhân. Quá trình sử dụng thẻ, bị đơn đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền 59.255.000 đồng và đã thanh toán cho Ngân hàng 61.205.000 đồng tiền nợ gốc và lãi, sau đó bị đơn không tiếp tục thực hiện việc trả nợ. Ngân hàng đã nhiều lần có công văn nhắc nợ nhưng bị đơn vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ. Căn cứ vào thỏa thuận của các bên được quy định tại Mục 2 và Mục 23 Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng Thương mại Cổ phần T; khoản 1 Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ gốc 11.336.278 đồng sang nợ quá hạn kể từ ngày 23/5/2017.

Trong suốt quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt cho thấy bị đơn đã từ bỏ nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh. Do đó, bị đơn phải chịu hậu quả của việc không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ được quy định tại Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Xét thấy bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Vì vậy, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền nợ gốc 11.336.278 đồng và tiền lãi quá hạn tạm tính đến ngày 01/4/2020 (ngày xét xử sơ thẩm) là 5.923.060 đồng là có cơ sở, phù hợp với quy định tại Điều 91; khoản 1, khoản 2 Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng và Điều 280; Điều 463; Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015 nên được chấp nhận.

[3.3] Về thời hạn và phương thức thanh toán: Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên cần buộc bị đơn thanh toán nợ một lần cho nguyên đơn ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật là phù hợp.

[4] Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn tiếp tục phải thanh toán khoản tiền lãi phát sinh kể từ ngày 02/4/2020 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ theo lãi suất nợ quá hạn các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng là có cơ sở chấp nhận.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình về việc giải quyết vụ án là có cơ sở, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[6] Về án phí:

[6.1] Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả 17.259.338đ (Mười bảy triệu hai trăm năm mươi chín ngàn ba trăm ba mươi tám) đồng được Tòa án chấp nhận toàn bộ nên theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự. Án phí bị đơn phải chịu là 862.967đ (Tám trăm sáu mươi hai ngàn chín trăm sáu mươi bảy) đồng.

[6.2] Hoàn trả cho nguyên đơn số tiền 396.767đ (Ba trăm chín mươi sáu ngàn bảy trăm sáu mươi bảy) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí Tòa án số AA/2018/0039117 ngày 06 tháng 9 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 21; khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35: điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91; khoản 1, khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:

Căn cứ vào Điều 122; 123; 124; 389; 401 và 405 của Bộ luật dân sự 2005; Căn cứ vào Điều 463; Điều 466 và điểm c, d khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015:

Căn cứ vào Điều 91 và khoản 1, khoản 2 Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng:

 Căn cứ vào khoản 1 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 24 và khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Căn cứ vào Luật Thi hành án dân sự:

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần T.

1.1. Buộc Ông K phải thanh toán trả Ngân hàng Thương mại Cổ phần T số tiền nợ gốc: 11.336.278đ (Mười một triệu ba trăm ba mươi sáu ngàn hai trăm bảy mươi tám) đồng và khoản tiền lãi quá hạn: 5.923.060đ (Năm triệu chín trăm hai mươi ba ngàn không trăm sáu mươi) đồng; tổng cộng là 17.259.338đ (Mười bảy triệu hai trăm năm mươi chín ngàn ba trăm ba mươi tám) đồng tính đến ngày 01/4/2020 phát sinh từ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 07/8/2010. Thực hiện một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

1.2. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ này.

Các bên thực hiện dưới sự giám sát của Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm 2. Về án phí:

2.1. Ông K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 862.967đ (Tám trăm sáu mươi hai ngàn chín trăm sáu mươi bảy) đồng. K chưa nộp án phí.

2.2. Hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần T số tiền 396.767đ (Ba trăm chín mươi sáu ngàn bảy trăm sáu mươi bảy) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí Tòa án số AA/2018/0039117 ngày 06 tháng 9 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2020/DS-ST ngày 01/04/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:83/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 01/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về