Bản án 83/2019/HSST ngày 03/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 83/2019/HSST NGÀY 03/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1 xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 72/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 6 năm 2019 Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 440/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

ơng Tấn D, sinh năm 1980, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: TK53/21 đường Võ Văn Kiệt, phường X, Quận Y, Thành phố H; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; con ông (cha) vô danh và bà Lương Thị Tấn T; chưa có vợ con; nhân thân: Ngày 28/9/1996 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 1462/HSPT, ngày 20/4/1998 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 112/HSST, ngày 19/02/2001 bị Tòa án nhân dân Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ, vận chuyển mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy” theo bản án số 50/HSST, ngày 02/7/2015 bị Tòa án nhân dân Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 200/2015/HSST; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 16/12/2016, bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 02 năm theo quyết định số 577/2016/QĐ-TA; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 05/3/2019 tại nhà tạm giữ Công an Quận 1. (có mặt)

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: - Ông Thái Hoàng T, sinh năm: 1982 Nơi cư trú: 62/46/2 đường Trần Hưng Đạo, phường X, Quận Y, Thành phố H. (vắng mặt)

- Bà Nguyễn Thị Ánh T, sinh năm: 1985 Nơi cư trú: TK44/33 đường Võ Văn Kiệt, phường X, Quận Y, Thành phố H. (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện ma túy, khoảng 10 giờ ngày 05/3/2019, Lương Tấn D điều khiển xe gắn máy biển số 52T7 - 6323 đến trước số nhà 186/7 đường Bùi Viện, Quận Y, Thành phố H gặp một người phụ nữ không rõ lai lịch mua 01 gói heroine với giá 90.000 đồng. Sau khi mua, D để ma túy vào vỏ bao thuốc lá hiệu Jet cất vào trong túi quần rồi điều khiển xe gắn máy đến đón Nguyễn Thị Ánh T tại Quận 5. D chở T đến bên hông trường tiểu học Chương Dương, Quận 1 ngồi nói chuyện và D lấy từ trong túi quần ra một gói thuốc lá hiệu Jet bên trong để ma túy để ở giữa ngay cạnh chân phải của D do có biểu hiện nghi vấn nên Công an yêu cầu D và T về trụ sở Công an phường Cầu Kho, Quận 1 để kiểm tra làm rõ. Qua kiểm tra thu giữ một gói thuốc lá hiệu Jet bên trong có một gói nylon chứa 0,1450 gram chất bột màu trắng, D khai heroine nên tiến hành thu giữ vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại cơ quan điều tra, D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Theo bản kết luận giám định số: 666/KLGĐ-H ngày 12/3/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Bột màu trắng trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1450 gram loại Heroine.

Bản cáo trạng số: 80/CT-VKSQ1 ngày 03/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 đã truy tố bị cáo Lương Tấn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Ti phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh tụng: Sau khi kiểm tra đầy đủ các chứng cứ buộc tội, gỡ tội và các tình tiết khác của vụ án, bị cáo đã thừa nhận hành vi sai trái do bị cáo gây ra tương tự như nội dung bản cáo trạng đã nêu, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Như vậy, hành vi phạm tội của bị cáo đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, phạt tiền bị cáo 5.000.000 (năm triệu) đồng.

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 gói niêm phong ghi vụ số 666/2019 chứa chất ma túy bên trong có 0,1450 gram, loại Heroine (mẫu vật còn lại sau khi sử dụng phục vụ công tác giám định).

- Tịch thu, tiêu hủy 01 mảnh giấy bạc; 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet; 01 hộp quẹt (màu vàng).

- 01 (một) xe gắn máy hiệu Yamaha biển số: 52T7 – 6323 cần tiếp tục thông báo tìm kiếm chủ sở hữu trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng, hết thời hạn trên không có chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp đến nhận xe thì tịch thu sung quỹ Nhà nước. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu của xe trên nên dành cho các bên trong vụ án dân sự khác.

Tại phiên tòa, bị cáo Lương Tấn D đã khai nhận hành vi phạm tội như kết luận điều tra và cáo trạng truy tố, bị cáo không có ý kiến tranh tụng gì và nói lời sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và vụ án còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, bản tường trình, tờ tự khai, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định,… nên có căn cứ để kết luận bị cáo Lương Tấn D đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, với khối lượng là 0,1450 gram, ma túy ở thể rắn, loại Heroine. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lương Tấn D đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và tại phiên tòa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với quyết tâm cao. Bị cáo đủ nhận thức để biết rõ tác hại của ma túy nhưng vì muốn thỏa mãn với động cơ cá nhân nên bất chấp xem thường pháp luật cố tình phạm tội. Bị cáo có nhân thân xấu, đã hai lần bị xét xử về tội “trộm cắp tài sản” và bị xét xử về tội “Tàng trữ, vận chuyển mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy”, bị cáo lại có tiền sự về sử dụng trái phép chất ma túy bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 02 năm theo quyết định số 577/2016/QĐ-TA ngày 16/12/2016. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại đến chế độ quản lý độc quyền các chất gây nghiện của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác nên cần có mức án nghiêm để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Xét tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải nộp một khoản tiền nhất định để sung quỹ Nhà nước.

[6] Đối với Nguyễn Thị Ánh T là bạn gái của bị cáo D, được bị cáo D chở đi nhờ, việc bị cáo D cất giữ ma túy T không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 không xử lý trách nhiệm hình sự đối với T là có cơ sở.

[7] Đối với là người phụ nữ bán ma túy cho bị cáo D, quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch, cơ quan điều tra Công an Quận 1 tiếp tục xác minh làm rõ có cơ sở xử lý sau.

[8] Vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 gói niêm phong ghi vụ số 666/2019 chứa chất ma túy bên trong có 0,1450 gram, loại Heroine (mẫu vật còn lại sau khi sử dụng phục vụ công tác giám định) cần tịch thu, tiêu hủy. - Đối với 01 mảnh giấy bạc; 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet; 01 hộp quẹt (màu vàng) là vật chứng của vụ án cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) xe gắn máy hiệu Yamaha biển số: 52T7 – 6323, số khung: RLCN2B560-7Y025469, số máy: 2B025469 thu giữ của bị cáo D. Qua xác minh được biết xe trên do ông Thái Hoàng T, sinh năm 1982, trú tại số 62/46/2 đường Trần Hưng Đạo, phường X, Quận Y, Thành phố H đứng tên sở hữu nhưng qua xác minh ông T hiện không còn cư ngụ tại địa chỉ trên. Bà Nguyễn Thị Ánh T khai đã mua chiếc xe trên vào ngày 24/02/2019 trên đường Phạm Thế Hiển, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 4.200.000 đồng, chỉ viết giấy tay, không làm thủ tục sang tên, nhưng có giao giấy đăng ký xe. Sau khi mua được xe bà T đưa xe cho bị cáo D mượn để sử dụng, không biết bị cáo D sử dụng vào việc đi mua ma túy và Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu nên yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền tiếp tục thông báo tìm kiếm chủ sở hữu trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng, hết thời hạn trên không có chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp đến nhận xe thì tịch thu sung quỹ Nhà nước. Trong trường hợp bà Nguyễn Thị Ánh T và ông Thái Hoàng T có tranh chấp về quyền sở hữu của xe trên nên dành cho các bên trong vụ án dân sự khác.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy: Tuyên bố: Lương Tấn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; phạt bị cáo Lương Tấn D 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/3/2019.

Buộc bị cáo Lương Tấn D phải nộp phạt 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) để sung vào công quỹ Nhà nước.

Việc bị cáo nộp số tiền phạt nêu trên phải được thực hiện một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

khon 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số 666/2019 chứa chất ma túy.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 86/19-PNK ngày 05/4/2019 của Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) Tịch thu tiêu hủy 01 (một) mảnh giấy bạc; 01 (một) vỏ gói thuốc lá hiệu Jet;

01 (một) hộp quẹt (màu vàng).

Giao 01 (một) xe gắn máy hiệu Yamaha biển số: 52T7 – 6323, số khung: RLCN2B560-7Y025469, số máy: 2B025469 cho cơ quan thi hành án có thẩm quyền thông báo tìm kiếm chủ sở hữu trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng, hết thời hạn trên không có chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp đến nhận xe thì tịch thu sung quỹ Nhà nước. Trong trường hợp bà Nguyễn Thị Ánh T và ông Thái Hoàng T có tranh chấp về quyền sở hữu của xe trên nên dành cho các bên trong vụ án dân sự khác.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 72/19-PNK ngày 21/3/2019 của Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo Lương Tấn D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền phải thi hành án, hàng tháng bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Áp dụng Điều 26 Luật thi hành án dân sự; trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. Bị cáo Lương Tấn D, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Ánh T được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tòa tuyên án. Đối với người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2019/HSST ngày 03/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:83/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về