Bản án 80/2019/HS-ST ngày 22/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 80/2019/HS-ST NGÀY 22/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 104/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Đỗ Thị Kim P; Sinh ngày: 20/9/1980; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 29/11 đường TC, khu phố E, phường TP, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Phòng 203, nhà số 813, đường TXS, phường TH, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Đạo Thiên Chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đỗ Ngọc Tú và bà: Đỗ Thị Soi; Có chồng: Là ông Dương Văn Hữu (đã ly hôn) và con: Không; Tiền án: Ngày 03/3/2016, bị Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội «Mua bán trái phép chất ma túy» (Bản án số: 14/2016/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/12/2017 (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số: 1202/GCN của Trại giam Xuân Lộc); Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 24/4/2019.

(có mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Trần Thị Kim N; Sinh năm: 1986; Thường trú: Xóm 5, xã TN, huyện XT, tỉnh Nam Định. (vắng mặt)

2. Công ty Cổ phần Bất Động Sản The GH; Địa chỉ: 83-85 đường số 9, khu dân cư KS, phường TP, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người đại diện theo pháp luật: Bà Trần Thị Thanh N; Sinh năm: 1995 - Là Giám đốc Công ty. (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 23 giờ 20 phút ngày 24/4/2019, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 6 phát hiện Nguyễn Thanh L (tài xế xe Go Việt) đang điều khiển xe gắn máy biển số 52S4-7155 chở Đỗ Thị Kim P chạy đến trước nhà số 33 đường số 32, Phường 10, Quận 6 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Thấy Công an, P vứt 01 hộp giấy bên trong có 02 gói nylon chứa tinh thể không màu và 01 gói nylon chứa 30 viên nén màu nâu đất xuống đường, nhưng đã bị phát hiện thu giữ. Sau đó, đã giao P, Lâm cùng vật chứng nêu trên cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Đỗ Thị Kim P khai: Nguồn gốc ma túy bị thu giữ gồm: 02 gói ma túy khay và 30 viên thuốc lắc (để trong hộp giấy bên ngoài có ghi chữ Mayan) là của P và một người bạn tên Hy (không rõ lai lịch) hùn tiền mua từ một người đàn ông tên Hai (không rõ lai lịch) ở cầu Tham Lương, Quận 12 với giá 19.000.000 đồng vào lúc 19 giờ ngày 24/4/2019. Sau khi mua ma túy xong, P đem về phòng trọ tại nhà số 813, đường TXS, phường TH, Quận G cất. Đến 23 giờ cùng ngày, Hy gọi điện thoại kêu P đem số ma túy trên đến quán Karaoke Icool, Quận 6 để hát Karaoke và sử dụng, nên P lấy hộp ma túy đem theo rồi đặt xe Go Việt đến điểm hẹn. Khi đến nơi, P xuống xe và đứng bên hông quán Karaoke Icool (trước nhà số 33 đường số 32, Phường 10, Quận 6) trả tiền xe và chờ Hy đến thì bị phát hiện bắt giữ như nêu trên.

Nguyễn Thanh L khai cũng tương tự và xác nhận không biết Đỗ Thị Kim P cất giữ ma túy trong người.

Tiến hành khám xét nơi ở của Đỗ Thị Kim P tại phòng trọ số 203, nhà số 813, đường TXS, phường TH, Quận G (phòng trọ này, P dùng bản photo Chứng minh nhân dân mang tên Trần Thị Kim N thuê ở cùng Ngô Hồng Châu) , Công an còn thu giữ trong nhà vệ sinh 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá (gồm: 01 bình nhựa, 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút); thu giữ ngăn kéo thứ cạnh giường ngủ của P 01 cân điện tử bên ngoài có ghi chữ FEH Series; 01 cây kéo kẹp bằng kim loại; 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút, 10 bịch nylon có rãnh âm dương, 01 ống hút cắt xéo.

Tại Kết luận giám định số: 970/KLGĐ-H ngày 07 tháng 5 năm 2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: 01 gói được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Nguyễn Tuấn Thành (người chứng kiến), Đỗ Thị Kim P và hình dấu Công an Phường 10, Quận 6, bên trong có:

- 30 viên nén màu nâu đất trong 01 gói nylon cần giám định, có khối lượng 13,4945g (một ba phẩy bốn chín bốn năm gam), không tìm thấy ma túy.

- Tinh thể không màu trong 02 gói nylon cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 14,0619g (một bốn phẩy không sáu một chín gam), loại Ketamine.

Đối với hành vi cất giữ 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá của Đỗ Thị Kim P, do số lượng chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đối với Nguyễn Thanh L, qua điều tra xác định Lâm chỉ là tài xế xe Go Việt, không liên quan đến hành vi phạm tội của Đỗ Thị Kim P, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đối với Trần Thị Kim N, Cơ quan điều tra chưa triệu tập ghi lời khai được, nên chưa có cơ sở làm rõ.

Đối với những người tên Hy, tên Ngô Hồng Châu và người đàn ông tên Hai bán ma túy cho Đỗ Thị Kim P, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Tại Cáo trạng số: 91/CT-VKS-Q6 ngày 17 tháng 7 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Đỗ Thị Kim P về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Thị Kim P khai nhận chính bị cáo đã hùn tiền với một người bạn tên Hy (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 02 bịch ma túy khay và 30 viên thuốc lắc giá 19.000.000 đồng (bị cáo hùn 7.000.000 đồng) từ một người đàn ông tên Hai tại khu vực cầu Tham Lương, Quận 12 để đem đến quán Karaoke Icool, Quận 6 sử dụng và bị Công an phát hiện bắt quả tang tại trước nhà số 33 đường số 32, Phường 10, Quận 6 (bên hông quán Karaoke Icool) vào lúc 23 giờ 20 phút ngày 24/4/2019 như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Đỗ Thị Kim P như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Đỗ Thị Kim P từ 03 năm đến 04 năm tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm g khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, vỏ màu đen, số Imei 1: 352884108357410, số Imei 2: 352884108857419.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói bên ngoài có ghi vụ số: 970/2019, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, cán bộ điều tra Bùi Thành Phương. Bên trong có: 27 viên nén màu nâu đất có khối lượng 12,0832 gam và tinh thể không màu có khối lượng 13,0102 gam; 01 hộp giấy bên ngoài có ghi chữ Mayan; 01 cân điện tử bên ngoài có ghi chữ FEH Series (kích thước hộp 240x170x65mm, kích thước mặt cân 140x165mm); 01 cây kéo kẹp bằng kim loại; 10 bịch nylon có rãnh âm dương; một bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 bình nhựa, 02 nỏ thủy tinh, 02 ống hút; 01 ống hút cắt xéo; 02 sim điện thoại có số thuê bao: 0335073478 và 0931145415.

Trả lại bị cáo Đỗ Thị Kim P 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung, vỏ màu đen, số Imei 1: 355731/09/203051/0, số Imei 2: 355732/09/203051/8 và số tiền 2.200.000 đồng.

Lời nói sau cùng, bị cáo Đỗ Thị Kim P nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Đỗ Thị Kim P tại phiên tòa là phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; Kết luận giám định; lời khai của ông Nguyễn Thanh L và của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Đỗ Thị Kim P đã cất giữ 14,0619 gam ma túy ở thể rắn (loại Ketamine) để sử dụng, là phạm tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy». Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi của bị cáo Đỗ Thị Kim P không những đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về chế độ quản lý, trao đổi, cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Đỗ Thị Kim P là người đã trưởng thành, hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra, nhưng để thỏa mãn lối sống không lành mạnh và nhất là xem thường pháp luật, nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Bị cáo Đỗ Thị Kim P ngày 03/3/2016, bị Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xử phạt 03 năm tù về tội «Mua bán trái phép chất ma túy», chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý là tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Đỗ Thị Kim P là nghiêm trọng, bởi ma túy nói chung và Ketamine nói riêng là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập của chính người sử dụng và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì bị cáo Đỗ Thị Kim P còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo phạm tội không vụ lợi, là lao động tự do, điều kiện kinh tế còn khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Việc xử lý vật chứng: Phương tiện mà bị cáo Đỗ Thị Kim P dùng vào việc phạm tội là 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, vỏ màu đen, số Imei 1: 352884108357410, số Imei 2: 352884108857419, Hội đồng xét xử tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Riêng 01 gói bên ngoài có ghi vụ số: 970/2019, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, cán bộ điều tra Bùi Thành Phương. Bên trong có: 27 viên nén màu nâu đất có khối lượng 12,0832 gam và tinh thể không màu có khối lượng 13,0102 gam; 01 hộp giấy bên ngoài có ghi chữ Mayan; 01 cân điện tử bên ngoài có ghi chữ FEH Series (kích thước hộp 240x170x65mm, kích thước mặt cân 140x165mm); 01 cây kéo kẹp bằng kim loại; 10 bịch nylon có rãnh âm dương; một bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 bình nhựa, 02 nỏ thủy tinh, 02 ống hút; 01 ống hút cắt xéo; 02 sim điện thoại có số thuê bao: 0335073478 và 0931145415, là vật cấm lưu hành, vật không có giá trị hoặc không sử dụng được, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Còn 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung, vỏ màu đen, số Imei 1: 355731/09/203051/0, số Imei 2: 355732/09/203051/8 và số tiền 2.200.000 đồng thu giữ của bị cáo Đỗ Thị Kim P. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả lại cho bị cáo vì không đủ căn cứ xác định do bị cáo phạm tội mà có hoặc bị cáo sẽ dùng vào việc phạm tội. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

(theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 57/PNK ngày 06 tháng 6 năm 2019 và Giấy nộp tiền vào tài khoản số: 02 ngày 22 tháng 5 năm 2019 của Công an Quận 6 - BL18, 19) [7] Đối với hành vi mua 30 viên thuốc lắc (qua giám định có khối lượng là 13,4945 gam, không tìm thấy ma túy). Viện kiểm sát xác định không đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Đỗ Thị Kim P, vì P không biết đó là ma túy giả và P cũng không có dự định bán cho người nghiện, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Đối với hành vi cất giữ 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá của Đỗ Thị Kim P. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát xác định không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với P về hành vi tàng trữ dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Đối với ông Nguyễn Thanh L, tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát xác định định L chỉ là tài xế xe Go Việt, không liên quan đến hành vi phạm tội của Đỗ Thị Kim P, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Đối với bà Trần Thị Kim N, Cơ quan điều tra chưa triệu tập ghi lời khai được, nên chưa có cơ sở giải quyết và tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị lúc nào Cơ quan điều tra làm rõ giải quyết sau. Còn những người tên Hy, tên Ngô Hồng Châu và người đàn ông tên Hai bán ma túy cho Đỗ Thị Kim P, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[9] Bị cáo Đỗ Thị Kim P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Đỗ Thị Kim P phạm tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy».

- Căn cứ điểm g khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Đỗ Thị Kim P 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/4/2019.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, vỏ màu đen, số Imei 1: 352884108357410, số Imei 2: 352884108857419.

- Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) gói bên ngoài có ghi vụ số: 970/2019, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Phan Tấn Quốc, cán bộ điều tra Bùi Thành Phương. Bên trong có: 27 (hai mươi bảy) viên nén màu nâu đất có khối lượng 12,0832 gam và tinh thể không màu có khối lượng 13,0102 gam; 01 (một) hộp giấy bên ngoài có ghi chữ Mayan; 01 (một) cân điện tử bên ngoài có ghi chữ FEH Series (kích thước hộp 240x170x65mm, kích thước mặt cân 140x165mm); 01 (một) cây kéo kẹp bằng kim loại; 10 (mười) bịch nylon có rãnh âm dương; một bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 (một) bình nhựa, 02 (hai) nỏ thủy tinh, 02 (hai) ống hút; 01 (một) ống hút cắt xéo; 02 (hai) sim điện thoại có số thuê bao: 0335073478 và 0931145415.

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại bị cáo Đỗ Thị Kim P 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung, vỏ màu đen, số Imei 1: 355731/09/203051/0, số Imei 2: 355732/09/203051/8 và 2.200.000 (hai triệu hai trăm ngàn) đồng.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Đỗ Thị Kim P phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Đỗ Thị Kim P có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2019/HS-ST ngày 22/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:80/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về