Bản án 76/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 76/2019/HS-ST NGÀY 19/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 80/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Đặng Thành V, sinh ngày 25 tháng 10 năm 1985 tại Sơn La; nơi cư trú: tổ 2, phường QT, thành phố S, tỉnh S; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đặng Quang H; con bà: Nguyễn Thị L; tiền án: Ngày 31/7/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; tiền sự: không; nhân thân: không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15 tháng 8 năm 2019 đến nay, “có mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: chị Cầm Thị M, sinh năm 1985, nơi cư trú: tổ 2, phường Quyết Thắng, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12 giờ ngày 15/8/2019, bị cáo Đặng Thành V liên lạc điện thoại di động với một người đàn ông tên “Viền” hỏi mua ma túy. Sau đó, bị cáo V điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 26B2 – 088.17 đến điểm hẹn tại khu vực giáp ranh giữa bản Bùa Thượng 3, xã Tường Phù và bản Nà Mạc, xã Gia Phù, huyện Phù Yên gặp và mua của người đàn ông đó 01 gói ma túy với giá 200.000đồng. Sau khi mua được ma túy, bị cáo cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái rồi đi về, đi được khoảng 100 mét thì bị Công an phát hiện bắt giữ.

Tại biên bản mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu gửi giám định xác định (Bút lục số 07): Vật chứng thu giữ của Đặng Thành V là 01 gói chất bột màu trắng có tổng khối lượng là 0,199 gam. Cơ quan điều tra đã lấy toàn bộ 0,199 gam (ký hiệu V) gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 1409 ngày 21/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận (Bút lục số 08): Mẫu gửi giám định ký hiệu V là ma túy, loại Heroine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,199 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,199 gam, loại Heroine. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận của Cơ quan điều tra và của Phòng kỹ thuật hình sự nêu trên.

Với những tình tiết như trên, tại Cáo trạng số: 79/CT-VKS-PY ngày 04/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La đã truy tố Đặng Thành V về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Thành V đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Kết thúc việc xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa trình bày luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Hành vi của bị cáo Đặng Thành V đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đặng Thành V từ 2 năm đến 2 năm 6 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Áp dụng điểm a, c khoản 1Điều 47 của Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy giấy gói ma túy, phong bì niêm phong vật chứng khi bắt người phạm tội quả tang. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu bạc, số IMEL1: 869125024248275, số LMEL 2: 869125024248264. Chấp nhận cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Cầm Thị M 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Jupiter, biển kiểm soát 26B2 – 088.17.

Trong phần đối đáp, bị cáo Đặng Thành V nhất trí với quyết định truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là chị Cầm Thị M vắng mặt tại phiên tòa nhưng có văn bản xác nhận chiếc xe mô tô là tài sản chung của vợ chồng, chị M bỏ tiền ra mua sắm trong thời gian bị cáo V đi chấp hành án. Đầu tháng 8/2019, bị cáo có sử dụng chiếc xe mô tô làm phương tiện đi làm tại huyện Phù Yên. Việc bị cáo tự ý sử dụng làm phương tiện đi tìm mua ma túy, chị M không được biết. Chị M đề nghị được nhận lại chiếc xe mô tô nêu trên.

Kết thúc tranh luận, bị cáo nói sau cùng. Trong lời nói sau cùng, bị cáo có ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phù Yên, Điều tra viên và Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng quy định theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Thành V khai nhận hành vi cất giữ Heroine mục đích để sử dụng. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Theo tinh thần tiểu mục 3.1, mục 3, phần II của Thông tư liên tịch số: 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ V an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp thì “Tàng trữ trái phép chất ma túy là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất giấu trong quần áo, tư trang mặc trên người hoặc theo người…) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định tội này”.

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự thì “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

Kết quả cân tịnh và giám định vật chứng xác định: Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,199gam, loại Heroine. Như vậy, hành vi cất giữ trái phép 0,199 gam Heroine nhằm mục đích để sử dụng của Đặng Thành V đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội và về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách quản lý các chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức được việc “Tàng trữ trái phép chất ma túy” bị pháp luật nghiêm cấm nhưng để thỏa mãn cơn nghiện ma túy, bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật, cố ý phạm tội.

Bị cáo làm nghề lao động tự do, nhận thức pháp luật có phần hạn chế, sử dụng ma túy từ năm 2017. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo là người đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, thuộc trường hợp “tái phạm” quy định tại khoản 1 Điều 53 của Bộ luật hình sự. Do đó, cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 đối với bị cáo.

Trên địa bàn huyện Phù Yên thời gian gần đây tình hình tội phạm, người phạm tội và tệ nạn ma túy diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng, làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Do đó, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo, đảm bảo việc giáo dục riêng, phòng ngừa chung. Từ việc đánh giá những căn cứ quyết định hình phạt trên, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo với mức hình phạt tương xứng với tính chất hành vi phạm tội.

Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng,…” do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo làm nghề lao động tự do, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế gia đình còn khó khăn (Bút lục số 48). Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Đối với giấy gói ma túy, phong bì niêm phong vật chứng khi bắt người phạm tội quả tang, xác định là vật chứng, vật không có giá trị. Căn cứ vào Điều 89; điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định.

Đi với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu bạc, bị cáo sử dụng vào việc liên lạc mua ma túy. Xác định là công cụ, phương tiện phạm tội. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Đi với chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Jupiter, biển kiểm soát 26B2 – 088.17, do chị M mua trong thời kỳ hôn nhân, xác định là tài sản chung của bị cáo và chị M. Bị cáo tự ý sử dụng chiếc xe đi tìm mua ma túy, chị M không được biết, chị M không có lỗi trong việc để bị cáo sử dụng chiếc xe vào việc thực hiện hành vi phạm tội. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị M chiếc xe mô tô là đúng quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

Đi với người đàn ông tên “Viền” đã bán ma túy cho bị cáo. Bị cáo V không biết họ tên, địa chỉ của người đàn ông đó ở đâu. Việc mua bán ma túy không có ai khác biết sự việc. Ngoài lời khai của bị cáo, không còn chứng cứ nào khác chứng minh việc mua bán ma túy. Do đó, Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để xử lý.

Do đến ngày xét xử, thời hạn tạm giam đối với bị cáo đã hết nên Hội đồng xét xử cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ Luật Hình sự;

Căn cứ điểm a, c khoản 1Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ Luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

1. Tuyên bố: Bị cáo Đặng Thành V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Đặng Thành V 24 (hai mươi tư) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15 tháng 8 năm 2019 (ngày bị cáo bị bắt, tạm giữ). Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy giấy gói ma túy, phong bì niêm phong vật chứng khi bắt người phạm tội quả tang. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu bạc, số IMEL1: 869125024248275, số LMEL2: 869125024248264. Chấp nhân cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Cầm Thị M 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Jupiter, biển kiểm soát 26B2 – 088.17.

3. Về án phí: Bị cáo Đặng Thành V phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (19/11/2019). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:76/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Yên - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về