Bản án 76/2019/HS-ST ngày 10/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 76/2019/HS-ST NGÀY 10/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 73/2019/TLST-HS ngày 20 tháng 9 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo:

1/ Tống Văn K, sinh năm 1994; Tại: xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn S, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Tống Văn G và bà Vũ Thị N; chưa có vợ; Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Bị bắt tạm giữ từ ngày 10/4/2019 đến ngày 19/4/2019 chuyển tạm giam cho đến nay; Có mặt.

2/ Lê Văn Ngh, sinh năm 1970; Tại: xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn S, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn D (đã chết) và bà Nguyễn Thị Th (đã chết); Có vợ là Vũ Thị H (đã ly hôn) và có 03 con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Nhân thân: Ngày 20/6/2008 bị Tòa án nhân dân huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ra trại ngày 03/11/2012; Ngày 25/9/2014 bị Công an thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa khởi tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” ngày 13/6/2017 đình chỉ điều tra, miễn trách nhiệm hình sự do trọng lượng ma túy tàng trữ không đủ định lượng. Bị bắt tạm giữ từ ngày 10/4/2019 đến ngày 19/4/2019 chuyển tạm giam cho đến nay; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 10/4/2019 Lê Văn Ngh điều khiển xe mô tô BKS 62F1-2764 chở Tống Văn K từ thôn S, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa xuống Cầu Cừ đi làm, khi xuống đến Cầu Cừ thì K rủ Ngh chở K vào thị trấn Hà Trung mua ma túy về sử dụng, Ngh đồng ý và chở K theo đường QL1A đến công ty thuốc lá Thanh Hóa thuộc tiểu khu 3, thị trấn Hà Trung, huyện Hà Trung, Ngh rẽ vào đường nhỏ bên cạnh công ty, đến ngã ba thôn Thượng Quý, xã Hà Phong huyện Hà Trung thì Ngh đi thẳng khoảng 50m đến một cổng sắt màu xanh thì dừng xe đứng chờ, còn K đi vào gặp một người đàn ông không quen biết, K mua của người đàn ông này 01(một) gói ma túy được bọc bên ngoài bằng nilon màu xanh giá 400.000đồng, K cầm gói ma túy ở tay phải rồi quay ra chỗ Ngh đứng chờ, cả hai đi về theo đường cũ. Khi đi đến đoạn đường QL1A, giao nhau với tỉnh lộ 508 thì Ngh và K bị Công an dừng xe kiểm tra, thu giữ trên tay phải K đang cầm 01(một) gói ma túy. Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng.

Tại bản kết luận giám định số: 1006/PC09 ngày 16/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hoá kết luận: Chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy có trọng lượng (khối lượng) 0,328gam loại: Heroine.

Ti bản cáo trạng số 75/CT-VKS-MT ngày 18/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá đã truy tố Tống Văn K và Lê Văn Ngh về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Ti phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung giữ nguyên quyết định truy tố và đề Ngh áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự. Đề Ngh xử phạt Tống Văn K từ 24 tháng đến 27 tháng tù; Lê Văn Ngh từ 21 tháng đến 24 tháng tù; Đề Ngh áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy toàn bộ chất ma túy là Heroine là mẫu vật còn lại sau giám định và không áp dụng hình phạt bổ sung là tiền đối với các bị cáo.

Li nói sau cùng các bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Đề Ngh Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hà Trung, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Tống Văn K và Lê Văn Ngh đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Đối chiếu lời khai nhận của các bị cáo với lời khai của người làm chứng, kết quả giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp; Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hi 14 giờ 45 phút, ngày 10/4/2019 tại tiểu khu 5, thị trấn Hà Trung, huyện Hà Trung, Cơ quan điều tra Công an huyện Hà Trung phát hiện Lê Văn Ngh điều khiển xe mô tô BKS 62F1 - 2764 chở Tống Văn K có biểu hiện nghi vấn, Công an tiến hành dừng xe để kiểm tra thì phát hiện trên tay phải Tống Văn K đang cầm 01 gói nhỏ bên ngoài bọc nilon màu xanh, tiếp đến là lớp giấy trắng, trong cùng có chứa chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn nghi là ma túy. Ngay tại chỗ Lê Văn Ngh và Tống Văn K khai nhận gói chất bột Công an mới thu giữ trên là ma túy Ngh và K mới mua để sử dụng. Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Văn Ngh và Tống Văn K và niêm phong vật chứng. Gói ma túy có trọng lượng (khối lượng) 0,328gam loại Heroine. Như vậy hành vi của các bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi tàng trữ phép chất ma tuý của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, hành vi đó là rất nghiêm trọng, mang tính nguy hiểm cao cho xã hội. Các bị cáo phải biết rằng ma tuý là hiểm hoạ, là nguyên nhân gây ra sự suy thoái về đạo đức và cũng là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, ảnh hưởng lớn đến trật tự trị an xã hội. Căn cứ vào hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải được xử lý nghiêm khắc để giáo dục các bị cáo và nhằm cảnh tỉnh răn đe phòng ngừa những kẻ có ý đồ phạm tội như các các bị cáo. Nên cần xử cách ly các bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục là cần thiết.

Là vụ án có hai bị cáo tham gia thực hiện hành vi phạm tội nhưng không có sự câu kết chặt chẽ nên chỉ là đồng phạm giản đơn. Các bị cáo cùng tham gia một thời điểm. K là người rủ, có tiền và trực tiếp mua ma túy nên có vai trò chính; Ngh là người chở K nên có vai trò thấp hơn. Do vậy mức hình phạt K cao hơn Ngh.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

c bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Đối với Ngh, ngày 20/6/2008 bị Tòa án nhân dân huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nay đã được xóa án tích và ngày 25/9/2014 bị Công an thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa khởi tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” ngày 13/6/2017 đình chỉ điều tra, miễn trách nhiệm hình sự. Đây thể hiện bị cáo xem thường pháp luật, không chịu tu dưỡng bản thân, nên cần xem xét khi quyết định hình phạt.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, đối với K có bố được thưởng huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng nhì và hạng nhất, đối với Ngh có anh trai là liệt sĩ. Nên cần áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định của pháp luật các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên các bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản riêng, số lượng chất ma túy tàng trữ không lớn và không nhằm mục đích kiếm lời. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: Số Heroin (vật chứng còn lại sau giám định) thu được của các bị cáo là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Đi với chiếc xe mô tô BKS 62F1 - 2764 Ngh dùng để chở K đi mua ma túy, Cơ quan điều tra đã xác minh là của anh Tống Văn Ch. Xét thấy việc Ngh sử dụng xe chở K đi mua ma túy anh Ch không biết nên CQĐT đã tiến hành trả lại cho anh Ch là hoàn toàn chính xác.

[7]. Đối với người đàn ông bán ma túy cho các bị cáo, do các bị cáo không biết tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ.

[8]. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Tống Văn K và Lê Văn Ngh phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 17; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Tống Văn K: 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ: 10/4/2019.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn Ngh: 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ: 10/4/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tch thu tiêu huỷ số Heroin còn lại sau giám định có trong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa.

(Tất cả hiện đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án huyện Hà Trung theo biên bản giao nhận ngày 08/10/2019).

3. Về án phí: Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, buộc bị cáo Tống Văn K và Lê Văn Ngh mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2019/HS-ST ngày 10/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:76/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về