TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN 2 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 70/2018/HSST NGÀY 15/11/2018 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 15 tháng 11 N 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh (số 1400 đường Đồng Văn Cống, phường Thạnh Mỹ Lợi, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh) đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 62/2018/HSST ngày 18 tháng 10 N 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 11 N 2018 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn P, tên gọi khác: Lụi; sinh N: 1992; tại: tỉnh An Giang; hộ khẩu thường trú: Ấp A, thị trấn B, huyện C, tỉnh D; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Hòa Hảo; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Làm thuê; con ông Nguyễn Văn H, sinh N 1964 và bà Hồ Thị D, sinh N 1965; bị cáo là con út trong gia đình có 4 anh em; tiền sự: Không.
Tiền án: Ngày 17/8/2011, bị tuyên phạt 08 N 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 215/2011/HSST của Tòa án nhân dân huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 21/01/2017.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 04/8/2018 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại: Thiếu úy Lê Anh T, sinh N 1991, hiện công tác tại Công an phường Bình Trưng Tây, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ: Số 195 đường A, phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08 giờ 05 phút ngày 04/8/2018 Công an phường Bình Trưng Tây, Quận 2 nhận được tin báo của bà Nguyễn Thị N trú tại 24/3 đường 11, khu phố 5, phường Bình Trưng Tây, Quận 2 có đối tượng nam thanh niên chưa rõ lai lịch trèo lên nóc nhà số 24/3 đường 11, khu phố 5, phường Bình Trưng Tây, Quận 2.
Do vậy đồng chí Lê Văn T – Trưởng Công an phường trực chỉ huy đã phân công đồng chí Lê Anh T cùng đồng chí Nguyễn Văn S và Trần Tiến Đ xuống hiện trường giải quyết vụ việc. Trong tổ công tác chỉ có đồng chí Lê Anh T là mặc cảnh phục, đeo cầu vai, bảng tên đúng theo quy định còn 02 đồng chí S và Đ thì mặc thường phục. Khi xuống hiện trường tổ công tác ghi nhận có 01 nam thanh niên đang ngồi trước phòng trọ số 24 đường 11, khu phố 5, phường Bình Trưng Tây, Quận 2. Lúc này tổ công tác được bà Nguyễn Thị N chỉ và xác nhận người thanh niên đang ngồi trước phòng trọ số 24 Đường 11, Khu phố 5, phường Bình Trưng Tây chính là đối tượng mới vừa leo trên lan can qua nhà. Qua làm việc được biết người thanh niên trên tên là Nguyễn Văn P mới về ở trọ tại địa chỉ trên từ ngày 01/8/2018. Do vậy tổ công tác lúc này do đồng chí Lê Anh T lại yêu cầu P xuất trình giấy tờ tùy thân và xuất trình giấy tờ chiếc xe hiệu Honda Vision dựng gần đó để kiểm tra nhưng P không chấp hành. Sau đó đồng chí T yêu cầu 02 đồng chí còn lại đưa xe mô tô trên và mời đối tượng P về trụ sở Công an phường để làm rõ nhưng P không chấp hành mà chống cự lại tổ công tác. Trong lúc chống cự P đã dùng tay phải giật rứt quân hàm bên phải áo cảnh phục của đồng chí Lê Anh T và dùng tay phải kéo rách túi quần cảnh phục bên phải khoảng 28 cm theo hướng từ trên xuống dọc túi quần. Sau đó P bị tổ công tác khống chế đưa về trụ sở Công an phường.
Vật chứng thu giữ: 01 áo cảnh sát màu xanh lá bị rách đai gắn quân hàm bên phải, 01 quần cảnh sát màu xanh lá bị rách dọc túi bên phải dài 28 cm, 01 cầu vai quân hàm cấp thiếu úy, 01 miếng đai gắn quân hàm bằng vải có chiều dài 13,5 cm, ngang 4 cm. Số tài sản trên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 2 đã trả lại cho người bị hại là anh Lê Anh T, 01 xe gắn máy hiệu Honda Vision màu xám biển số 59C2 - 717.70. Qua xác minh được biết chiếc xe trên do chị Nguyễn Thị Quỳnh Như trú tại 76/7 Huỳnh Tấn P, Khu phố 4, phường Phú Thuận, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh là người đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Chị Như và P là bạn bè quen biết nhau, xét thấy chiếc xe trên không liên quan tới việc thực hiện hành vi phạm tội của P và là tài sản hợp pháp của chị Như. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh đã trả lại cho chị Như.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là anh Lê Anh T không yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn P bồi thường về trách nhiệm dân sự.
Tại Bản cáo trạng số 61/CTr-VKS ngày 17 tháng 10 N 2018 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn P về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu. Đây là vụ án do Nguyễn Văn P thực hiện hành vi phạm tội xảy ra vào khoảng vào khoảng 08 giờ 10 phút ngày 04/8/2018 tại trước nhà trọ số 24 Đường 11, Khu phố 5, phường Bình Trưng Tây, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Văn P mặc dù biết anh Lê Anh T là chiến sỹ Công an phường Bình Trưng Tây, Quận 2 xuống thi hành công vụ nhưng P đã có hành vi chống đối, cản chở việc thi hành công vụ của anh T. Do vậy cần phải xử lý nghiêm minh để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P từ 01 (một) N đến 01 (một) N 06 (sáu) tháng tù.
Bị cáo không tranh luận và nói lời sau cùng: Bị cáo rất ăn năn, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về hành vi:
Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn P thừa nhận đã có hành vi chống đối, cản chở việc thực thi công vụ đối với thiếu úy Lê Anh T.
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Văn P đã phạm vào tội “Chống người thi hành công vụ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 330 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như kết luận của Kiểm sát viên.
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trật tự trị an xã hội, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ của những người đang thi hành công vụ và thông qua đó xâm phạm đến hoạt động của Nhà nước về quản lý hành chính trong lĩnh vực thi hành nhiệm vụ công, làm gia tăng tình trạng coi thường pháp luật, coi thường kỷ cương phép nước tại địa phương và đang là vấn đề bức xúc cần phải xử lý nghiêm để kéo giảm tình trạng chống người thi hành công vụ nói chung. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo và bảo đảm việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Về tình tiết tăng nặng định khung hình phạt:
Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự.
Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý trong thời gian chưa được xóa án tích nên thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 53 của Bộ luật Hình sự. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Các trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Về vật chứng: Đối với 01 áo cảnh sát màu xanh lá bị rách đai gắn quân hàm bên phải, 01 quần cảnh sát màu xanh lá bị rách dọc túi bên phải dài 28 cm, 01 cầu vai quân hàm cấp thiếu úy, 01 miếng đai gắn quân hàm bằng vải có chiều dài 13,5 cm, ngang 4 cm. Các tài sản trên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 2 đã trả lại cho người bị hại là anh Lê Anh T là đúng.
Đối với: 01 xe gắn máy hiệu Honda Vision màu xám biển số 59C2 - 717.70, qua xác minh được biết chiếc xe này là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị Quỳnh Như và xét thấy chiếc xe trên không liên quan tới việc thực hiện hành vi phạm tội của P. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh đã trả lại cho chị Như là đúng.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là anh Lê Anh T không yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn P bồi thường về trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 01 (một) năm tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 04/8/2018.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng về án phí, lệ phí Tòa án:
Buộc bị cáo Nguyễn Văn P nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản án.
Bản án 70/2018/HSST ngày 15/11/2018 về tội chống người thi hành công vụ
Số hiệu: | 70/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 2 (cũ) - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về