TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 12/2020/HSST NGÀY 28/04/2020 VỀ CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 28 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện M L, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Q V T, sinh ngày 22/4/1984, tại M C, M L, Sơn La; Nơi ĐKHKTT: Bản N N, xã M C, huyện M L, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Đảng viên đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng; Con ông Q V C, sinh năm 1961 và con bà L T T, sinh năm 1964; có vợ là L T M, sinh năm 1987 và có 02 con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 14/01/2020, bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên toà.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
L V T. Sinh năm 1989.
Trú tại: Tiểu khu 5, thị trấn Ít Ong, huyện M L, tỉnh Sơn La.
Nơi công tác: Công an huyện M L, tỉnh Sơn La. Có đề nghị xử vắng mặt.
L M Q. Sinh năm 1981.
Trú tại: Tiểu khu 1, thị trấn Ít Ong, huyện M L, tỉnh Sơn La.
Nơi công tác: Công an huyện M L, tỉnh Sơn La. Có đề nghị xử vắng mặt.
Người làm chứng:
Đ V B, sinh năm 1975. Địa chỉ: Bản G, xã M B, huyện M L, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.
C V T, sinh năm 1993. Địa chỉ: Bản N T, xã M C, huyện M L, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Q V T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện M L truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Thực hiện Kế hoạch công tác tổ công tác đội Cảnh sát giao thông - Trật tự - Cơ động, Công an huyện M L (sau đây viết tắt là đội CSGT-TT-CĐ) gồm các đồng chí T Nc S, N T Q, L A H, L M Q, L V T đang làm nhiệm vụ tại quốc lộ 279 thuộc địa phận bản V M, xã M B, huyện M L, tỉnh Sơn La.
Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 07/01/2020, đội CSGT-TT-CĐ đang làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát giao thông phát hiện xe ôtô mang BKS 16N-5383 do L V C, sinh năm 1983, trú tại bản Nong, xã M C, huyện M L đang đi theo hướng Sơn La, huyện M L, tỉnh Sơn La. Tổ công tác đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra xác định L V C có nồng độ cồn 0,4miligam/01 lít khí thở và không có giấy phép lái xe, tổ công tác đã tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính đối với L V C. Trong khi lập biên bản thì có đối tượng Q V T, sinh năm 1984, trú tại bản N N, xã M C, huyện M L cùng D V B, sinh năm 1975, trú tại bản Giàn, xã Mường Bú, huyện M L đi đến vị trí của tổ công tác trong tình trạng say rượu để xin không xử lý lỗi vi phạm của L V C. Sau khi không xin được Q V T và D V B đã có lời nói khiêu khích, xúc phạm gây cản trở tổ công tác làm nhiệm vụ, sau đó Q V T dùng tay phải cầm lấy chiếc dép bên chân phải Tiện đang đi lên đánh vào mặt L M Q và vào tay trái của L M Q là hai cán bộ tổ công tác Đội CSGT- TT-CĐ. Tổ công tác áp giải Q V T về Công an huyện M L để xác minh, làm rõ.
Quá trình điều tra Q V T khai nhận: Khoảng 18 giờ ngày 07/01/2020 Q V T có ăn cơm, uống rượu tại nhà của D V B, sinh năm 1975, trú bản Giàn, xã Mường Bú, huyện M L, tỉnh Sơn La cùng với L V C, sinh năm 1983, trú tại bản Giàn, xã Mường Bú, huyện M L,; L V D, sinh năm 1972, trú tại bản N N, xã M C, huyện M L; Cà Văn Thân, sinh năm 1993, trú tại bản Nà Tòng, xã M C; M L, tỉnh Sơn La; Lù Văn Minh, sinh năm 1987, trú tại bản Bó, phường Chiềng An, thành phố Sơn La. Sau khi uống rượu say Q V T lên xe ôtô của Cà Văn Thân để ngủ, khi ăn cơm xong Cà Văn Thân điều khiển xe ôtô chở Tiện đang ngủ bên ghế phụ đi trước còn L V C điều khiển xe ôtô mang BKS 16N-5383 chở L V D và Lù Văn Minh đi phía sau. Đến khoảng 22 giờ 30 phút, khi đi đến địa phận bản Văn Minh, xã Mường Bú, huyện M L, tỉnh Sơn La thì bị tổ công tác đội CSGT-TT-CĐ, Công an huyện M L, tỉnh Sơn La yêu cầu dừng xe ôtô mang BKS 16N-5383 do L V C điều khiển để kiểm tra và lập biên bản vi phạm hành chính đối với L V C lỗi điều khiển xe khi trong hơi thở có nồng độ cồn 0,4 miligam/01 lít khí thở và không có giấy phép lái xe. Lúc này Q V T tỉnh dậy đi xuống xe thấy L V C đang bị lập biên bản vi phạm hành chính thì Q V T cùng D V B đến gặp tổ công tác để xin không xử lý lỗi vi phạm của L V C. Do không xin được nên Q V T và D V B đã có lời nói khiêu khích, xúc phạm gây cản trở tổ công tác làm nhiệm vụ và Q V T đã dùng tay cầm lấy chiếc dép bên chân phải đang đi lên đánh hai phát vào vùng mặt L M Q và đánh một phát vào tay trái L M Q, đều là hai đồng chí công an đang làm nhiệm vụ.
Cơ quan điều tra Công an huyện M L đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 03, 04 ngày 08/01/2020 về mức độ tổn hại % sức khỏe đối với L M Q và L M Q. Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 11 và 12 ngày 17/01/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Sơn La kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là không xếp hạng phần trăm thương tích.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại gì Kết luận giám định nêu trên.
Vật chứng thu giữ: Thu giữ của Q V T 01 chiếc dép có quai, bên phải dạng da, màu nâu, nhãn hiệu Fashion.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Q V T đủ yếu tố cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ”.
Tại Bản cáo trạng số 12/CT-VKSML ngày 20/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M L truy tố bị cáo Q V T về tội “ Chống người thi hành công vụ”, theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Q V T phạm tội “Chống người thi hành công vụ”. Căn cứ khoản 1 Điều 330; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt Q V T từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, đề nghị ấn định thời gian thử thách cho bị cáo.
Về vật chứng của vụ án và trách nhiệm bồi thường dân sự:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 585, 590 của Bộ luật Dân sự:
Đề nghị:
Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc dép có quai, bên phải dạng da, màu nâu, nhãn hiệu Fashion.
Chấp nhận việc bị cáo và anh L M Q, L M Q đã thỏa thuận bồi thường sức khỏe, và đã bồi thường xong.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Bị cáo Q V T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M L; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M L; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan L M Q, L M Q có đề nghị xử vắng mặt. Sự vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, do đó Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt vẫn đảm bảo quyền lợi cho họ.
[3] Tại phiên tòa bị cáo Q V T thừa nhận: Hồi 22 giờ 30 phút ngày 07/01/2020 khi tổ công tác đội CSGT-TT-CĐ Công an huyện M L đang làm nhiệm vụ tuần tra kiểm sát giao thông thuộc địa phận bản Văn Minh, xã Mường Bú, huyện M L, tỉnh Sơn La. Tổ công tác đang thực hiện nhiệm vụ lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính đối với L V C lái xe có nồng độ cồn. Q V T đã có hành vi dùng lời nói xúc phạm, dùng tay phải cầm chiếc dép đang đi bên chân phải của mình để đánh hai phát vào vùng mặt của L M Q và vụt một phát vào bàn tay trái của L M Q là hai thành viên của tổ công tác gây cản trở tổ công tác đội CSGT-TT-CĐ thi hành công vụ.
Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản sự việc, vật chứng thu giữ, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, lời khai của những người làm chứng.
Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Hành vi dùng tay cầm dép đánh thẳng vào mặt và vụt vào tay các đồng chí cảnh sát đang làm nhiệm vụ, nhằm để cản trở người thi hành công vụ của bị cáo Q V T đã phạm vào tội “Chống người thi hành công vụ” quy định tại khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi dùng vũ lực để cản trở người thi hành công vụ là vi phạm pháp luật hình sự nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của những người thi hành công vụ, xâm phạm đến hoạt động của cơ quan Nhà nước về quản lý hành chính trong lĩnh vực thi hành công vụ, gây mất trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người thi hành công vụ.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tích cực bồi thường, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo được gia đình, chính quyền địa phương có đơn xin giảm nhẹ và bảo lãnh theo quy định tại các điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, gia đình bị cáo và chính quyền địa phương có đơn xin bảo lãnh và đơn xin cho bị cáo cải tạo không giam giữ cho bị cáo. Từ các căn cứ trên xét thấy bị cáo có đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ theo quy định tại Điều 36 Bộ luật Hình sự. Nhận thấy bị cáo không có tài sản có giá trị, thu nhập không ổn định, do đó miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng và trách nhiệm bồi thường dân sự: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 585, 590 của Bộ luật Dân sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc dép có quai, bên phải dạng da, màu nâu, nhãn hiệu Fashion.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh L M Q, L M Q và bị cáo Q V T đã thỏa thuận bồi thường xong, anh Thi và anh Quyết không có yêu cầu gì thêm, cần chấp nhận.
Đối với D V B đã có lời nói, hành vi không đúng mức, có phần gây ảnh hưởng đến việc thi hành công vụ của tổ công tác, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Công an huyện M L đã ra quyết định xử phạt hành chính là thỏa đáng.
Đối với L V C đã có hành vi sử dụng rượu khi lái xe, đã bị công an xử phạt hành chính là đúng quy định của pháp luật.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 330; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 Bộ luật hình sự:
Tuyên bố: Bị cáo Q V T, phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
- Xử phạt bị cáo Q V T 01 (một) năm cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã M C, huyện M L, tỉnh Sơn La nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
Giao bị cáo Q V T cho Ủy ban nhân dân xã M C, huyện M L, tỉnh Sơn La giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp cùng UBND xã M C, huyện M L, tỉnh Sơn La trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Miễn việc khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Q V T.
Bị cáo Q V T phải thực hiện những nghĩa vụ được quy định tại Luật Thi hành án hình sự.
2. Về vật chứng vụ án và trách nhiệm bồi thường dân sự: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 585, 590 của Bộ luật Dân sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc dép có quai, bên phải dạng da, màu nâu, nhãn hiệu Fashion. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M L, tỉnh Sơn La).
Chấp nhận người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh L M Q, L M Q và bị cáo Q V T đã thỏa thuận bồi thường xong, anh Thi và anh Quyết không có yêu cầu gì thêm.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Q V T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 28/4/2020. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết
Bản án 12/2020/HSST ngày 28/04/2020 về chống người thi hành công vụ
Số hiệu: | 12/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/04/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về