Bản án 68/2020/HS-ST ngày 27/07/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 68/2020/HS-ST NGÀY 27/07/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 27 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 71/2020/TLST-HS ngày 26/6/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2020/QĐXXST- HS ngày 13/7/2020 đối với các bị cáo:

1. Vi Văn H, sinh năm 1993; HKTT: Thôn Đ, xã V, huyện S, tỉnh Bắc Giang; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo : Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vi Văn Đ, sinh năm 1965 và con bà Nông Thị Đ, sinh năm 1972; Có vợ Trần Thị H, sinh năm 1994 và có 01 con sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Chưa có Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/4/2020 đến ngày 18/4/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện đang tại ngoại – Có mặt

2. Nguyễn Đình K, sinh năm 1995; HKTT: Thôn Đ, xã Đ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính : Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đình N, sinh năm 1970 và con bà Phan Thị Q, sinh năm 1975; Có vợ Bùi Thị D, sinh năm 1998 và có 01 con sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Chưa có.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/4/2020 đến ngày 15/4/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện đang tại ngoại – Có mặt.

3. Nguyễn Phương H1, sinh năm 1996; HKTT: Thôn D, xã P, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính : Nam; Tôn giáo : Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Phương H, sinh năm 1969 và con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1974; Có vợ Đặng Thị C, sinh năm 2001 và có 01 con sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Chưa có Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/4/2020 đến ngày 15/4/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện đang tại ngoại – Có mặt

 4. Chu Sỹ T, sinh năm 1991; HKTT: Thôn B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính : Nam; Tôn giáo : Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Chu Sỹ K, sinh năm 1960 và con bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1959; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự:

Chưa có Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/4/2020 đến ngày 18/4/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện đang tại ngoại – Có mặt 5. Trần Văn T1, sinh năm 1991; HKTT: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính : Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn L, sinh năm 1966 và con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1964; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Chưa có Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/4/2020 đến ngày 18/4/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện đang tại ngoại – Có mặt

 6. Nguyễn Hữu Q, sinh năm 1993; HKTT: Thôn Đ, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính : Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 1962 và con bà Đặng Thị H, sinh năm 1963; Có vợ Đoàn Thị T, sinh năm 1995 và có 03 con, con lớn sinh năm 2017, 02 con nhỏ sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Chưa có Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/4/2020 đến ngày 15/4/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện đang tại ngoại – Có mặt

 7. Lý Văn L, sinh năm 1991; HKTT: Thôn K, xã Q, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Nùng; Giới tính : Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lý Văn S, sinh năm 1967 và con bà Vi Thị B, sinh năm 1965; Có vợ Lương Thị K, sinh năm 1992 và có 01 con sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Chưa có Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/4/2020 đến ngày 18/4/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện đang tại ngoại – Có mặt

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vi Văn H, Nguyễn Phương H1, Chu Sỹ T, Lý Văn L đang thuê trọ tại thôn Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Bắc Ninh có quen biết với Nguyễn Đình K. Buổi sáng ngày 12/4/2020 H1 đi nhờ xe của bạn đến phòng trọ của H chơi. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày thì có L, T và Trần Văn T1 đi bộ đến phòng trọ của H. Tại đây, H, H1, T, L và T1 cùng rủ nhau chơi đánh bạc bằng hình thức đánh “Liêng” sát phạt bằng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Các đối tượng sử dụng bộ bài tú lơ khơ 52 quân có sẵn tại phòng trọ của H rồi cùng nhau ngồi quây tròn trên gác xép phòng trọ của H để đánh bạc. Đến khoảng 13 giờ thì có K đi bộ đến phòng trọ của H và cùng tham gia đánh bạc. Các đối tượng đánh bạc đến khoảng 13 giờ 30 phút thì L thua hết tiền nên không tham gia chơi nữa mà chỉ ngồi xem. Lúc này có Nguyễn Hữu Q là bạn của K và Nguyễn Văn Sơn là bạn của Q đi bộ đến phòng trọ của H. Sau đó Q có tham gia đánh bạc còn S chỉ ngồi xem. Trong quá trình các đối tượng đánh bạc thì có anh Nguyễn Văn Đ ở trọ cùng phòng với H đi làm về nhưng không tham gia đánh bạc mà đi ngủ tại tầng 1.

Các đối tượng đánh bạc đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày thì bị lực lượng Công an huyện Tiên Du phối hợp với Công an xã Đ bắt quả tang và thu giữ vật chứng gồm: Thu tại chiếu bạc 11.850.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam; 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân, mặt sau màu vàng có họa tiết màu xanh. Thu giữ của các đối tượng đánh bạc cụ thể: thu của Nguyễn Hữu Q 14.800.000 đồng; thu của Nguyễn Đình K 5.170.000 đồng, 01 điện thoại di động Iphone XS Max kèm sim Viettel; thu của Lý Văn L 52.000 đồng, 01 điện thoại Huewai kèm sim Viettel; thu của Vi Văn H 01 điện thoại Oppo F9 kèm sim Viettle; thu của Chu Sỹ T 01 điện thoại Oppo A31 kèm sim Viettel và 01 ví da màu nâu bên trong không có gì; thu của Trần Văn T1 01 điện thoại Oppo F9 màu xanh kèm sim Viettel và 01 ví da màu đen; thu của Nguyễn Phương H1 01 điện thoại Oppo F5 màu vàng nhạt kèm sim Viettel. Tổng số tiền cơ quan Công an thu giữ là 31.872.000 đồng, trong đó 11.850.000 đồng thu tại chiếu bạc và 20.022.000 đồng thu trên người các đối tượng. Quá trình điều tra xác định tổng số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc là 17.020.000 đồng.

Với nội dung trên, Cáo trạng số 55/CT - VKS ngày 25/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du đã truy tố các bị cáo Vi Văn H, Nguyễn Đình K, Nguyễn Hữu Q, Nguyễn Phương H1, Lý Văn L, Chu Sỹ T, Trần Văn T1 về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo lần lượt khai nhận nội dung Cáo trạng truy tố là đúng. Các bị cáo khai nhận số tiền sử dụng đánh bạc như sau: K sử dụng 7.170.000 đồng; H1 sử dụng 2.050.000 đồng; T sử dụng 2.000.000 đồng; T1 sử dụng 1.700.000 đồng; H sử dụng 2.000.000 đồng; L mang theo 852.000 đồng, sử dụng 800.000 đồng để đánh bạc còn lại 52.000 đồng; Q mang theo 16.100.000 đồng, sử dụng 1.300.000 đồng để đánh bạc còn lại 14.800.000 đồng. Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo K, L, H, T, T1 xin lại điện thoại bị thu giữ. Đối với chiếc ví da các bị cáo T, T1 không xin lại. Bị cáo L xin lại 52.000 đồng và bị cáo Q xin lại 14.800.000 đồng.

Đại diện Viện K sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo theo Cáo trạng số 55/CT- VKS ngày 25/6/2020. Trong phần luận tội đã phân tích nguyên nhân, tính chất, vai trò của các bị cáo, mức độ nguy hiểm cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

1/Tuyên bố các bị cáo Vi Văn H, Nguyễn Đình K, Nguyễn Hữu Q, Nguyễn Phương H1, Lý Văn L, Chu Sỹ T, Trần Văn T1 phạm tội “Đánh bạc”.

2/ Hình phạt và điều luật áp dụng:

*Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Vi Văn H từ 08 tháng đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 16 tháng đến 20 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

*Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i,s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt các bị cáo Nguyễn Đình K, Nguyễn Hữu Q mỗi bị cáo từ 08 tháng đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 16 tháng đến 20 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm Xử phạt các bị cáo Chu Sỹ T, Trần Văn T1 mỗi bị cáo từ 07 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 14 tháng đến 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

*Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i,s khoản 1, khoản 2 (đối với bị cáo L) Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Phương H1 từ 07 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 14 tháng đến 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt bị cáo Lý Văn L từ 06 tháng đến 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 16 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Phạt bổ sung các bị cáo H, K, T, T1 mỗi bị cáo từ 10 triệu đến 15 triệu đồng thu nộp ngân sách nhà nước. Phạt bị cáo Q từ 25 triệu đến 30 triệu đồng.

3/ Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 17.020.000 đồng;

- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ tú lơ khơ 52 quân; 02 ví da.

- Trả lại bị cáo Q số tiền 14.800.000 đồng; trả lại bị cáo K 01 điện thoại di động Iphone XS Max kèm sim Viettel; trả lại bị cáo L 52.000 đồng và 01 điện thoại Huewai màu vàng kèm sim Viettel; trả lại bị cáo H 01 điện thoại Oppo F9 kèm sim Viettle; trả lại bị cáo T 01 điện thoại Oppo A31 kèm sim Viettel; trả lại bị cáo T1 01 điện thoại Oppo F9 kèm sim Viettel; trả lại bị cáo H1 01 điện thoại Oppo F5 kèm sim Viettel nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án Các bị cáo sau khi nghe luận tội của đai diên Viên kiêm sat nhân dân huyện Tiên Du thừa nhận có tội, không tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ được và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 12/4/2020, tại gác xép trong phòng trọ của Vi Văn H ở thôn Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Bắc Ninh, các bị cáo Vi Văn H, Nguyễn Đình K, Nguyễn Phương H1, Chu Sỹ T, Nguyễn Hữu Q, Nguyễn Hữu Q và Lý Văn L đã thực hiện hành vi đánh bạc sát phạt bằng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam dưới hình thức chơi “Liêng”. Căn cứ vào tổng số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc là 17.020.000 đồng nên Cáo trạng truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trong vụ án này các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công cụ thể nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Bị cáo H do nể nang bạn bè nên cho các bị cáo khác chơi bạc tại phòng trọ của mình và trực tiếp tham gia đánh bạc. Tuy nhiên số tiền bị cáo H bỏ ra để đánh bạc ít. Bị cáo K sử dụng số tiền nhiều nhất khi tham gia đánh bạc. Bị cáo Q đến phòng trọ bị cáo H mang theo nhiều tiền nhất. Các bị cáo H1, T, T1 có số tiền tham gia đánh bạc thấp hơn. Bị cáo L sử dụng số tiền đánh bạc thấp nhất. Do vậy căn cứ vào số tiền các bị cáo sử dụng tham gia đánh bạc để áp dụng mức hình phạt phù hợp.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến trật tự công cộng, ảnh hưởng đến trật tự trị an, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân nơi xảy ra tội phạm. Ngoài ra tệ nạn đánh bạc có thể dẫn đến nhiều loại tội phạm khác…Hội đồng xét xử nhận thấy cần áp dụng một hình phạt tương xứng với hành vi các bị cáo đã phạm mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy: Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự. Bị cáo L là người dân tộc thiểu số sống tại vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, bị cáo H1 gia đình thuộc hộ cận nghèo thuộc diện trợ giúp pháp lý nhưng các bị cáo L, H1 đều từ chối. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo phạm tội lần này là lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo H, L có ông nội được tặng thưởng Huy chương kháng chiến nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Từ những phân tích, đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử nhận thấy các bị cáo Vi Văn H, Nguyễn Đình K, Nguyễn Phương H1, Chu Sỹ T, Nguyễn Hữu Q, Nguyễn Hữu Q và Lý Văn L có nhân thân tốt, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên cho các bị cáo hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo phạm tội với mục đích thu lời bất chính nên Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền là có căn cứ. Tuy nhiên bị cáo H1, L có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thuộc hộ cận nghèo nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền đối với 02 bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Đối với số tiền 17.020.000 đồng các bị cáo sử dụng để đánh bạc cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước. Đối với 01 bộ tú lơ khơ 52 quân là phương tiện phạm tội, giá trị sử dụng thấp cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 02 chiếc ví da của bị cáo T1, T không xin lại, giá trị sử dụng thấp nên tịch thu tiêu hủy.

Ngoài ra các điện thoại thu giữ của bị cáo K, L, H, T, T1, H1 và số tiền 14.800.000 đồng của bị cáo Q, 52.000 đồng của bị cáo L không liên quan đến hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử trả lại các bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Liên quan trong vụ án có anh Nguyễn Văn S và Nguyễn Văn Đ là những người có mặt tại phòng trọ của H khi lực lượng Công an bắt quả tang. Quá trình điều tra xác định, anh S và anh Đ không tham gia đánh bạc nên Cơ quan điều tra không xử lý mà chỉ giáo dục nhắc nhở là phù hợp. Đối với chị Võ Thị Thu H là chủ nhà trọ bị cáo H thuê, quá trình điều tra xác định chị H không biết việc các đối tượng có hành vi đánh bạc tại nhà mình nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật. Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố các bị cáo Vi Văn H, Nguyễn Đình K, Nguyễn Hữu Q, Nguyễn Phương H1, Lý Văn L, Chu Sỹ T, Trần Văn T1 phạm tội “Đánh bạc”.

2/ Hình phạt và điều luật áp dụng:

*Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 92 Luật thi hành án hình sự:

Xử phạt bị cáo Vi Văn H 08 (tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 (mười sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

*Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 92 Luật thi hành án hình sự:

Xử phạt bị cáo Lý Văn L 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

*Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 92 Luật thi hành án hình sự:

Xử phạt các bị cáo Chu Sỹ T, Trần Văn T1 mỗi bị cáo 07 (bẩy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

*Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 92 Luật thi hành án hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Phương H1 07 (bẩy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

*Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 92 Luật thi hành án hình sự:

Xử phạt các bị cáo Nguyễn Đình K, Nguyễn Hữu Q mỗi bị cáo 08 (tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 (mười sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm2 Phạt bổ sung các bị cáo H, K, T, T1 mỗi bị cáo 10 triệu; phạt bị cáo Q 25 triệu đồng thu nộp ngân sách nhà nước.

Giao bị cáo Vi Văn H cho UBND xã V, huyện S, tỉnh Bắc Giang; giao bị cáo Nguyễn Đình K cho UBND xã Đ, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; giao bị cáo Nguyễn Phương H1 cho UBND xã P, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh; giao bị cáo Chu Sỹ T cho UBND xã Đ, huyện Đ, tỉnh T; giao bị cáo Trần Văn T1 cho UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; giao bị cáo Nguyễn Hữu Q cho UBND xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; giao bị cáo Lý Văn L cho UBND xã Q, huyện B, tỉnh Lạng Sơn giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3/Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 17.020.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam;

- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ tú lơ khơ 52 quân, mặt sau màu xanh, họa tiết màu vàng; 01 ví da màu nâu và 01 ví đen màu đen;.

- Trả lại bị cáo Nguyễn Hữu Q số tiền 14.800.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam; trả lại bị cáo Nguyễn Đình K 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu vàng kèm sim Viettel; trả lại bị cáo Lý Văn L 52.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam, 01 điện thoại nhãn hiệu Huewai màu vàng, vỏ ốp màu đen kèm sim Viettel; trả lại bị cáo Vi Văn H 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo F9 màu đỏ kèm sim Viettle; trả lại bị cáo Chu Sỹ T 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo A31màu trắng kèm sim Viettel; trả lại bị cáo Trần Văn T1 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo F9 màu xanh kèm sim Viettel; trả lại bị cáo Nguyễn Phương H1 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo F5 màu vàng nhạt kèm sim Viettel nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/6/2020)

4/ Về án phí áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5/ Về quyền kháng cáo áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2020/HS-ST ngày 27/07/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:68/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về