TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 82/2019/HSST NGÀY 11/09/2019 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC VÀ ĐÁNH BẠC
Trong các ngày 10 và 11 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 71/2019/HSST ngày 06 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 140/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2019 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên Mầu Tiến Q; Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày 02 tháng 10 năm 1989 tại xã Cò Nòi, huyện Mai S, Sơn La; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Tiểu khu 39, xã Cò Nòi, huyện Mai S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không; Họ tên bố: Mầu Tiến Năm, sinh năm 1963 (đã chết); mẹ: Trần Thị Sen, sinh năm 1963, Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không có. Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/4/2019 đến ngày 15/5/2019 thì được thay đổi biện pháp ngăn chặn sang bảo lĩnh. Có mặt.
2. Họ và tên: Phạm Hồng S; Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày 03 tháng 9 năm 1983 tại xã Cò nòi, huyện Mai S, Sơn La; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Tiểu khu Thống Nhất, xã Cò Nòi, huyện Mai S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không; Họ tên bố: Phạm Văn Thành, sinh năm 1956; mẹ: Phạm Thị Na, sinh năm 1960; Vợ: Nguyễn Thị Tho, sinh năm 1990 và có 02 người con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không có. Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn từ ngày 10/4/2019 đến ngày 15/5/2019 thì được thay đổi biện pháp ngăn chặn sang bảo lĩnh. Có mặt.
3. Họ và tên: Đỗ Văn H; Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày 10 tháng 02 năm 1985 tại xã Cò Nòi, huyện Mai S, Sơn La; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Tiểu khu 39, xã Cò Nòi, huyện Mai S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không; Họ tên bố: Đỗ Văn Chính, sinh năm 1959 (đã chết); mẹ: nguyễn Thị Thúy, sinh năm 1960; vợ: Tô Thu Hằng, sinh năm 1988; có 02 người con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Ngày 02/02/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Mai S, tỉnh Sơn La xử phạt 02 năm 01 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 năm 02 tháng (chưa được xóa án tích). Bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/4/2019 đến nay. Có mặt.
4. Họ và tên: Nguyễn Duy V; Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày 24/01/1993, tại xã Cò Nòi, huyện Mai S, tỉnh Sơn La; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Tiểu khu 39, xã Cò Nòi, huyện Mai S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không; Họ tên bố: Nguyễn Duy Vị, sinh năm 1968; mẹ: Ngô Thị Giang, sinh năm 1969; Vợ: Đặng Thu Hương, sinh năm 1995 và có 02 người con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: 02 tiền án về tội Cố ý gây thương tích (ngày 19/7/2012 Tòa án nhân dân huyện Mai S, tỉnh Sơn La xử phạt 16 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 32 tháng; Ngày 28/9/2011 Tòa án nhân dân huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu xử phạt 05 triệu đồng về tội đánh bạc). Bị áp dụng biện pháp tạm giữ từ ngày 10/4/2019 đến ngày 19/4/2019 thì được hủy bỏ biện pháp tạm giữ, áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
5. Họ và tên: Nguyễn Mạnh H; Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày 05/02/1994, tại xã Cò Nòi, huyện Mai S, tỉnh Sơn La; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Tiểu khu Thống Nhất, xã Cò Nòi, huyện Mai S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không; Họ tên bố: Nguyễn Văn Hạnh, sinh năm 1966; mẹ: An Thị Thoa, sinh năm 1966; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không có. Bị áp dụng biện pháp tạm giữ từ ngày 10/4/2019 đến ngày 19/4/2019 thì được hủy bỏ biện pháp tạm giữ, áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
6. Họ và tên: Cầm Anh B; Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày 19/11/1987, tại huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Bản Dôm, thị trấn Hát Lót, huyện Mai S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không; Họ tên bố: Cầm Mạnh Kiên, sinh năm 1957; mẹ: Hà Thị Vi, sinh năm 1958; Vợ: Lò Thị Xuân, sinh năm 1990 và có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: 01 tiền án về tội Đánh bạc (Ngày 23/02/2018 bị Công an huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La bắt về hành vi đánh bạc. Tại bản án số 35/ 2018- HSST ngày 19/6/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Châu xử phạt 07 tháng, cải tạo không giam giữ về tội đánh bạc). Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn từ ngày 10/4/2019 đến ngày 15/5/2019 thì được thay đổi biện pháp ngăn chặn sang bảo lĩnh. Có mặt.
7. Họ và tên: Đặng Đình V; Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày 01/03/1993, tại huyện Mai S, tỉnh Sơn La; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Bản Co Muông, xã Cò Nòi, huyện Mai S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không; Họ tên bố: Đặng Đình Cường, sinh năm 1969; mẹ: Nguyễn Thị Mùi, sinh năm 1973; Vợ: Phí Thị Thảo, sinh năm 1996; con: Đặng Đình Tuấn Hưng, sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không có. Bị áp dụng biện pháp tạm giữ từ ngày 10/4/2019 đến ngày 19/4/2019 thì được hủy bỏ biện pháp tạm giữ, áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
8. Họ và tên: Nguyễn Xuân M; Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày 18/10/1968, tại huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn Năm Thành, xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình; Chỗ ở hiện nay: Tiểu khu 1, xã Cò Nòi, huyện Mai S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không; Họ tên bố: Nguyễn Văn Việt, sinh năm 1930 (đã chết); mẹ: Phạm Thị Nhữ, sinh năm 1927 (đã chết); có vợ là Quách Thị Nhàn, sinh năm 1976; có 02 người con, lớn sinh năm 1993 (đã chết), nhỏ sinh năm 2000; Tiền án, tiền sự: Có 01 tiền sự (ngày 09/5/2008 bị Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xử lý vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc). Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn từ ngày 10/4/2019 đến ngày 15/5/2019 thì được thay đổi biện pháp ngăn chặn sang bảo lĩnh. Có mặt.
9. Họ và tên: Đỗ Xuân C; Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày 08/08/1979, tại huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Tiểu khu 3/2, xã Cò Nòi, huyện Mai S, tỉnh Sơn La. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không; Họ tên bố: Đỗ Bá Hà, sinh năm 1953 (đã chết); mẹ: Nguyễn Thị Phích, sinh năm 1955; Vợ: Nguyễn Thị Hiền, sinh năm 1980; có 03 người con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không có. Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn từ ngày 10/4/2019 đến ngày 15/5/2019 thì được thay đổi biện pháp ngăn chặn sang bảo lĩnh. Có mặt.
10. Họ và tên: Nguyễn Hoàng K; Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày 05/02/1997, tại huyện Mai S, tỉnh Sơn La; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Tiểu khu Bình Minh, xã Cò Nòi, huyện Mai S, tỉnh Sơn La. Chỗ ở hiện nay: Tiểu khu 2, xã Cò Nòi, huyện Mai S, tỉnh Sơn La. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không; Họ tên bố: Nguyễn Minh Châu, sinh năm 1974; mẹ: Phạm Thị Cúc, sinh năm 1976; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không có. Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn từ ngày 10/4/2019 đến ngày 15/5/2019 thì được thay đổi biện pháp ngăn chặn sang bảo lĩnh. Có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Mầu Tiến X, trú địa chỉ: Tiểu khu 39, xã Cò Nòi, huyện Mai S, tỉnh Sơn La; Vắng mặt.
- Anh Đỗ Văn E; trú địa chỉ: Tiểu khu 39, xã Cò Nòi, huyện Mai S, tỉnh Sơn La; Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 16 giờ 10 phút, ngày 10/4/2019, tổ công tác Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Sơn La phát hiện, bắt quả tang 16 đối tượng có mặt tại nhà Mầu Tiến X, trú tại tiểu khu 39, xã Cò Nòi, huyện Mai S, đang có hành vi đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa, sát phạt nhau bằng tiền, các đối tượng bị bắt gồm: Mầu Tiến X, (Chủ nhà); Doãn Thị Hồng Hạnh (vợ Cường); Phạm Hồng S, trú tại tiểu khu Thống Nhất, xã Cò Nòi, huyện Mai S; Cầm Anh B, trú tại tiểu khu 1, thị trấn Hát Lót, huyện Mai S; Đặng Đình V, trú tại bản Co Muông, xã Cò Nòi, huyện Mai S; Nguyễn Xuân M, trú tại Thôn Năm Thành, xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; Đỗ Trọng Biên, trú tại tiểu khu 19/5, xã Cò Nòi, huyện Mai S; Nguyễn Thanh Sơn, trú tại tiểu khu 19/5, xã Cò Nòi, huyện Mai S; Nguyễn Hoàng K, trú tại tiểu khu 2, xã Cò Nòi, huyện Mai S; Đỗ Văn E, trú tại tiểu khu 39, xã Cò Nòi, huyện Mai S; Mầu Tiến Q, trú tại tiểu khu 19/5, xã Cò Nòi, huyện Mai S; Nguyễn Mạnh H, trú tại tiểu khu Thống Nhất, xã Cò Nòi, huyện Mai S; Đỗ Văn H, trú tại tiểu khu 39, xã Cò Nòi, huyện Mai S; Đỗ Xuân C, trú tại tiểu khu 32, xã Cò Nòi, huyện Mai S; Nguyễn Duy V, trú tại tiểu khu 39, xã Cò Nòi, huyện Mai S; Điêu Chính Mừng, trú tại bản Sơn Pha, xã Cò Nòi, huyện Mai S. Cơ quan Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, khám xét khẩn cấp và thu giữ vật chứng gồm:
- (Một) bát sứ màu trắng, đường kính miệng 11cm + 01 đĩa trắng hình tròn, đường kính 17,9cm, có hoa văn màu đỏ đỏ vàng xanh ở lòng đĩa. Số tiền 51.200.000đ (Năm mươi mốt triệu hai trăm nghìn đồng) thu giữ tại chiếu nơi các đối tượng ngồi đánh bạc. 04 (bốn) quân vị hình tròn; 01 (một) búa kim loại;
01(một) thanh kim loại hình trụ tròn; 01 mảnh gỗ màu nâu;
- 16 (mười sáu) bộ bài lá cao cấp nhãn hiệu Hoa Hồng TNHHTM Chung hương và 01 bộ bài chẵn thần tài thu tại chiếc tủ kệ bằng gỗ kê phía dưới bàn thờ trong nhà ở của Mầu Tiến X. 03 (ba) chiếc bát và 03 chiếc đĩa thu tại chiếc tủ kệ bằng gỗ kê phía dưới bàn thờ trong nhà ở của Mầu Tiến X. (01) chiếc đầu thu camera vỏ màu đen phát hiện thu giữ tại giá bàn thờ trong nhà Mầu Tiến X.
01 (một) chiếc ví màu đỏ (dạng ví nữ) trong có 1.090.000đ (một triệu không trăm chín mươi nghìn đồng) thu tại chiếc tủ gỗ ba gian trong phòng ngủ tại tầng 2 nhà Mầu Tiến X. 01 (một) quyển sổ bìa màu đen có in chữ BUSINESS KB6- 240T thu tại góc trên bên phải (theo hướng nhìn đối diện vào) trong phòng ngủ tại tầng 2. Tại két sắt bên trong góc tường đối diện vào phòng ngủ phát hiện có 17.350.000đ (mười bảy triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng). 02 (Hai) chiếc bát sứ màu trắng nhãn hiệu Long Phương, đường kính bát 11,5cm, phát hiện thu tại ngăn tủ bàn học kê đối diện cửa ra vào phòng ngủ. 01 (một) chiếc đĩa sứ màu trắng đường kính 18cm thu tại ngăn tủ bàn học kê đối diện cửa ra vào phòng ngủ.
- Một chiếc chiếu nhựa hoa văn màu xanh, kích thước 1,8m x4m.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE màu vàng đã qua sử dụng, số IMEI 355728077590542, lắp 01 sim; 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu HTC màu bạc đã qua sử dụng, số IMEI 355991060577989, lắp 01 sim; và số tiền 13.000.000 đồng (Mười ba triệu đồng) thu giữ của Cầm Anh B.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE màu vàng đã qua sử dụng, số IMEI 354386060159626, lắp 01 sim; 01(Một) chiếc điện thoại SAMSUNG màu đen đã qua sử dụng, số IMEI 35214110009899101 và số 3521421000899901, lắp 01 sim; 01 giấy CMND mang tên Mầu Tiến Q thu giữ của Mầu Tiến Q.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhẫn hiệu SAMSUNG vỏ màu vàng đồng đã qua sử dụng, số IMEI 35159010394012/01 và số 351591103094010/01, lắp 02 sim, thu giữ của Phạm Hồng S.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu NOKIA vỏ màu đen đã qua sử dụng, số Seri 355839096992096, lắp 01 sim, thu giữ của Phạm Hồng S.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG vỏ màu đen đã qua sử dụng, số IMEI 354021085923884/01 và số 35402208592388/01, lắp 01 sim, thu giữ của Đặng Đình V.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE vỏ màu trắng đã qua sử dụng, số IMEI 352028062828533, lắp 01 sim; 01 giấy CMND mang tên Nguyễn Hoàng K thu giữ của Nguyễn Hoàng K.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE màu vàng đã qua sử dụng, số IMEI 359465081895759, lắp 01 sim, thu giữ của Nguyễn Mạnh H.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE màu bạc đã qua sử dụng, số IMEI 352016073848871, lắp 01 sim, thu giữ của Nguyễn Duy V.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO màu trắng đã qua sử dụng, số IMEI 863660031164475 và số 863660031164467, lắp 02 sim, thu giữ của Đỗ Xuân C.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO màu vàng đã qua sử dụng, số IMEI 869600038198815 và số 869600038198807, lắp 02 sim, thu giữ của Nguyễn Xuân M.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO vỏ màu hồng đã qua sử dụng, mặt trước bị nứt vỡ, số IMEI số Imei 868753621408751 và số 868753621408769, lắp 02 sim, thu giữ của Đỗ Văn E.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE màu đen - bạc đã qua sử dụng, số IMEI 013991002990807, lắp 01 sim, thu giữ của Mầu Tiến X.
- Đối với vật chứng thu giữ là 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu sirius màu đỏ đen, biển kiểm soát 26K1-165.08, số khung Y034800, số máy 1FC00YV-1 thu giữ của Cầm Anh B; 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVERSX màu đỏ đen, biển kiểm soát 26B1-040.52, số khung 078700, số máy 5989334 thu giữ của Nguyễn Xuân M; 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu DETECH màu tím than, biển kiểm soát 26H3-8643, số khung 000851, số máy 000851 thu giữ của Nguyễn Mạnh H; 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu WAVE màu trắng, biển kiểm soát 26K1-151.83, số khung 547893, số máy 0523027 thu giữ của Đặng Đình V; 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE màu đỏ đen, biển kiểm soát 17M4-7130, số khung 420302, số máy 2164284 thu giữ của Đỗ Xuân C; 01 Chiếc đầu thu Camera vỏ màu đen, tại mặt đáy có dán tem ghi mã “K9604-W;DC12V/2A” thu giữ tại nhà Mầu Tiến X đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La trả lại cho chủ sở hữu.
Tại Cơ quan điều tra các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 12 giờ ngày 10/4/2019, Mầu Tiến Q, cùng Điêu Chính Mừng, đến chơi tại nhà Mầu Tiến X (anh trai Quế). Khi đến nơi Quế và Mừng lên tầng 2 vào phòng thứ hai nằm ngủ. Khoảng 14 giờ cùng ngày, Quế và Mừng thức dậy đi xuống tầng 1 thì thấy vợ chồng Mầu Tiến X - Doãn Thị Hồng Hạnh đang ở tầng 1, Đỗ Trọng Biên và Nguyễn Thanh Sơn, đang ngồi ở bàn uống nước trong quán, Quế và Mừng đi đến ngồi uống nước cùng Biên và Sơn. Khoảng 30 phút sau có Đỗ Văn H đến ngồi uống nước cùng mọi người. Khoảng 15 giờ thì vợ chồng Mầu Tiến X và Doãn Thị Hạnh cùng nhau đi lên Công an huyện Mai S xin cấp đổi lại giấy đảm bảo An ninh trật tự cho quán và phòng Karaoke đến khoảng 16 giờ mới trở về nhà. Sau khi vợ chồng Mầu Tiến X đi khỏi nhà thì Mầu Tiến Q gọi điện thoại rủ một số người đến đánh bạc gồm: Đặng Đình V, Nguyễn Xuân M, Nguyễn Hoàng K, Nguyễn Mạnh H, Đỗ Xuân C. Sau khi nhận điện thoại của Quế thì Vương, Mạnh, Hoàng Hải, Mạnh Hải, Cường lần lượt đến nhà Mầu Tiến X; Phạm Hồng S, Nguyễn Duy V, Cầm Anh B, Đỗ Văn E, cũng đến nhà Mầu Tiến X cùng ngồi uống nước ở tầng 1. Khi thấy mọi người đến thì Mầu Tiến Q nói “Anh em có chơi tý không”, mọi người đều hiểu ý của Quế rủ đánh bạc nên đồng ý. Quế bảo mọi người lên phòng ngủ trên tầng 2, khi vào phòng Quế lấy bộ bát đĩa bằng sứ để xuống chiếu và một bộ tú nhãn hiệu "Hoa Hồng" đưa cho Đỗ Văn H (bộ bát đĩa và bộ tú do Quế chuẩn bị từ trước để trong túi khoác mang theo người). Đỗ Văn H dùng búa, thanh kim loại và một mảnh gỗ có sẵn trên tầng 2 để đục 04 quân vị hình tròn từ lá bài tú lơ khơ do Quế đưa cho. Khi Hoàng đục quân vị xong thì mọi người ngồi xuống chiếu, Phạm Hồng S, Cầm Anh B, Đặng Đình V, Nguyễn Xuân M, Nguyễn Hoàng K, Nguyễn Mạnh H, Đỗ Văn H, Đỗ Xuân C, Nguyễn Duy V cùng tham gia đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa, cá cược được thua bằng tiền. Phạm Hồng S là người cầm cái (người xóc đĩa) còn các đối tượng khác đặt cược theo hai cửa chẵn, lẻ mức đặt cược thấp nhất là 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) không giới hạn mức cá cược cao nhất. Đỗ Trọng Biên, Nguyễn Thanh Sơn, Đỗ Văn E, Điêu Chính Mừng, Mầu Tiến Q không tham gia đánh bạc mà chỉ ngồi xem. Theo kết quả điều tra, các bị can khai nhận trước khi đánh bạc, bị can Đỗ Văn H mang theo số tiền 6.000.000đ (sáu triệu đồng) sử dụng để đánh bạc, khi bị bắt đã thua hết số tiền trên. Bị can Phạm Hồng S, không mang theo tiền nhưng được Mầu Tiến Q cho vay số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng) sử dụng đánh bạc, khi bị bắt đang có 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng). Bị can Cầm Anh B mang theo 14.500.000đ (mười bố triệu năm trăm nghìn đồng) nhưng chỉ cầm theo số tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) sử dụng đánh bạc, còn 13.000.000đ để trong cốp xe máy dựng dưới sân, khi bị bắt đang hòa. Bị can Đặng Đình V mang theo số tiền 1.100.000đ (một triệu một trăm nghìn đồng) sử dụng đánh bạc, khi bị bắt đang thua nên còn số tiền 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng). Bị can Nguyễn Xuân M mang theo số tiền 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng) sử dụng đánh bạc, khi bị bắt đang thắng nên số tiền có được là 3.000.000đ (ba triệu đồng). Bị can Nguyễn Hoàng K mang theo số tiền 1.700.000đ (một triệu bảy trăm nghìn đồng) sử dụng đánh bạc, khi bị bắt đang thắng nên số tiền có được là 2.600.000 (hai triệu sáu trăm nghìn đồng). Bị can Nguyễn Mạnh H mang theo số tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng) sử dụng đánh bạc, khi bị bắt đã thua hết số tiền trên. Bị can Đỗ Xuân C mang theo số tiền 2.640.000đ (hai triệu sáu trăm bốn mươi nghìn đồng) sử dụng đánh bạc, khi bị bắt đang thắng nên số tiền có được là 10.600.000đ (mười triệu sáu trăm nghìn đồng). Bị can Nguyễn Duy V mang theo số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) và được Mầu Tiến Q trả nợ tiền vay trước đó 5.000.000đ (năm triệu đồng) sử dụng toàn bộ để đánh bạc, khi bị bắt đã thua hết số tiền trên. Tổng số tiền các bị can khai bị thu giữ khi bị bắt là 33.300.000đ (ba mươi ba triệu ba trăm nghìn đồng). Các bị can đánh bạc được khoảng 10 phút thì Mầu Tiến Q đứng ra thu tiền phế và yêu cầu mỗi người nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Cầm Anh B, Đặng Đình V, Nguyễn Xuân M, Nguyễn Hoàng K, Đỗ Văn H, Đỗ Xuân C, Nguyễn Duy V nộp tiền đưa cho Mầu Tiến Q. Tổng số tiền phế Quế thu được là 1.600.000đ (một triệu sáu trăm nghìn đồng) để trong túi quần, khi bị bắt quả tang Quế đã bỏ xuống chiếu bạc 1.400.000đ còn sót 200.000đ, thu của người đến sau, khi đến Công an tỉnh Quế mới giao nộp. Trong quá trình đánh bạc Mầu Tiến Q cho Phạm Hồng S vay số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng), để sử dụng các cược và trả cho Nguyễn Duy V số tiền vay trước đó 5.000.000đ (năm triệu đồng). Các đối tượng đánh bạc đến 16 giờ 10 phút cùng ngày thì bị Tổ công tác thuộc Phòng Cảnh sát Hình sự Công an tỉnh Sơn La phát hiện bắt quả tang, thu trên chiếu bạc số tiền 51.200.000đ (năm mươi mốt triệu hai trăm nghìn đồng), trong đó xác định số tiền sử dụng để đánh bạc là 49.800.000đ (bốn mươi chín triệu tám trăm nghìn đồng); số tiền phế bị caó Quế thu được để tổ chức đánh bạc và bị bắt quả tang đã bỏ xuống chiếu bạc 1.400.000đ, và cùng một số vật chứng khác.
* Kết luận giám định: Ngày 10/5/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra (PC02), Công an tỉnh Sơn La đã ra Quyết định trưng cầu giám định số tiền 51.200.000đ (Năm mươi mốt triệu hai trăm nghìn đồng), thu trên chiếu bạc;21.090.000đ (Hai mươi mốt triệu, không trăm chín mươi nghìn đồng), thu khi khám xét nhà của Mầu Tiến X; 13. 000.000đ, (Mười ba triệu đồng), thu trong cốp xe của Cầm Anh B ). Tại Bản kết luận giám định số: 918 ngày 20/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La xác định toàn bộ số tiền thu giữ trong vụ án “là tiền thật”.
Do co hanh vi nêu trên , tại ban Cáo tr ạng số 65/VKS-P2 ngày 05 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đa truy t ố bị cáo Mầu Tiến Q về hai tội: Tổ chức đánh bạc theo quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 322 Bộ luật Hình sự năm 2015 và tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1, Điều 321, Bộ luật Hình sự năm 2015; truy tố các bị cáo: Phạm Hồng S, Đỗ Văn H, Cầm Anh B, Đặng Đình V, Nguyễn Xuân M, Nguyễn Hoàng K, Nguyễn Mạnh H, Đỗ Xuân C, Nguyễn Duy V về tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1, Điều 321, Bộ luật Hình sự năm 2015.
* Đối với Mầu Tiến X, Doãn Thị Hồng Hạnh, Đỗ Trọng Biên, Điêu Chính Mừng, Nguyễn Thanh Sơn, Đỗ Văn E sau khi bắt quả tang, qua xác minh xác định không tham gia đánh bạc nên ngày 11/4/2019 đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La ra Quyết định trả tự do, không xem xét xử lý.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị:
Về tội danh: Đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Mầu Tiến Q phạm hai tội: Tổ chức đánh bạc theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 và tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015; các bị cáo Phạm Hồng S, Đỗ Văn H, Nguyễn Duy V, Nguyễn Mạnh H, Cầm Anh B, Đặng Đình V, Nguyễn Xuân M, Đỗ Xuân C, Nguyễn Hoàng K phạm tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015.
Về hình phạt đề nghị:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322, khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Mầu Tiến Q từ 39 đến 48 tháng tù.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, khoản 1 Điều 53, Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Cầm Anh B từ 18 đến 24 tháng tù.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, khoản 1 Điều 53, Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Đỗ Văn H từ 42 đến 72 tháng tù.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, khoản 1 Điều 53, Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Nguyễn Duy V từ 18 đến 24 tháng tù.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 đề nghị HĐXX xử phạt các bị cáo Phạm Hồng S, Đỗ Xuân C từ 15 đến 18 tháng tù.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, khoản 1 Điều 53, Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 đề nghị HĐXX xử phạt các bị cáo Đặng Đình V, Nguyễn Xuân M, Nguyễn Hoàng K, Nguyễn Mạnh H từ 15 đến 18 tháng tù.
- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
- Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Các bị cáo Mầu Tiến Q, Phạm Hồng S, Đỗ Văn H, Nguyễn Duy V, Nguyễn Mạnh H, Cầm Anh B, Đặng Đình V, Nguyễn Xuân M, Đỗ Xuân C, Nguyễn Hoàng K đều nhất trí với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La và xin HĐXX xem xét, mở lượng khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về thời gian thực hiện hành vi phạm tội:
Khoảng 12 giờ ngày 10/4/2019, Mầu Tiến Q đã thực hiện hành vi rủ rê, lôi kéo và bố trí phòng ngủ tầng 2 của nhà anh Mầu Tiến X để thu tiền phế của người tham gia đánh bạc với số tiền phế thu được là 1.600.000 đồng (Một triệu sáu trăm nghìn đồng). Phạm Hồng S, Đỗ Văn H, Cầm Anh B, Đặng Đình V, Nguyễn Xuân M, Nguyễn Hoàng K, Nguyễn Mạnh H, Đỗ Xuân C, Nguyễn Duy V đã tham gia đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa, sát phạt nhau được thua bằng tiền, với số tiền sử dụng để đánh bạc là 49.800.000 đồng (Bốn chín triệu tám trăm nghìn đồng). Trong quá trình tổ chức cho người tham gia đánh bạc, Mầu Tiến Q đã cho Phạm Hồng S vay số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) để đánh bạc, trả nợ cho Nguyễn Duy V số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để đánh bạc nên Mầu Tiến Q còn có vai trò đồng phạm với các bị cáo về tội Đánh bạc.
Tổng số tiền các bị cáo khai khi bị bắt để sử dụng vào việc đánh bạc là 33.300.000đ. Trong đó:
Bị cáo Đỗ Văn H mang theo 6.000.000đ, khi bị bắt đã thua hết số tiền trên.
Bị cáo Phạm Hồng S không mang theo tiền để đánh bạc nhưng khi được Mầu Tiến Q cho vay 10.000.000đ, sử dụng vào việc đánh bạc khi bị bắt đang có 15.000.000đ.
Bị cáo Cầm Anh B mang theo 14.500.000đ nhưng chỉ dùng số tiền 1.500.000đ vào việc đánh bạc còn 13.000.000đ để trong cốp xe máy. Khi bị bắt đang hòa tiền.
Bị cáo Đặng Đình V mang theo 1.100.000đ sử dụng đánh bạc. Khi bị bắt đang thua.
Bị cáo Nguyễn Xuân M mang theo số tiền 1.200.000đ để sử dụng đánh bạc khi bị bắt đang có 3.000.000đ Bị cáo Nguyễn Hoàng K mang theo số tiền 1.700.000đ sử dụng đánh bạc. Khi bị bắt đang có 2.600.000đ.
Bị cáo Nguyễn Mạnh H mang theo số tiền 100.000đ sử dụng đánh bạc. Khi bị bắt đang thua hết số tiền nêu trên.
Bị cáo Đỗ Xuân C mang theo số tiền 2.640.000đ sử dụng đánh bạc. Khi bị bắt đang có 10.600.000đ.
Bị cáo Nguyễn Duy V mang theo số tiền 500.000đ và được Mầu Tiến Q trả nợ 5.000.000đ sử dụng vào việc đánh bạc. Khi bị bắt đã thua hết số tiền nêu trên.
Căn cứ vào lời khai của các bị cáo, vật chứng thu giữ được tại hiện trường và kết luận giám định của Công an tỉnh Sơn La; có đủ cơ sở xác định Mầu Tiến Q đã có hành vi tổ chức đánh bạc theo quy định tại điểm c, Khoản 1, Điều 322 và tội Đánh bạc theo quy định tại Khoản 1, Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Phạm Hồng S, Đỗ Văn H, Cầm Anh B, Đặng Đình V, Nguyễn Xuân M, Nguyễn Hoàng K, Nguyễn Mạnh H, Đỗ Xuân C và Nguyễn Duy V đã có hành vi đánh bạc, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1, Điều 321, Bộ luật Hình sự năm 2015.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo:
Đối với bị cáo Mầu Tiến Q đã có hành chuẩn bị phương tiện đánh bạc, rủ rê, lôi kéo các bị cáo Phạm Hồng S, Đỗ Văn H, Nguyễn Duy V, Nguyễn Mạnh H, Cầm Anh B, Đặng Đình V, Nguyễn Xuân M, Đỗ Xuân C, Nguyễn Hoàng K thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa tại nhà của Mầu Tiến X và bị bắt quả tang với tổng số tiền đánh bạc là 49.800.000 đồng. Trong quá trình các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội Mầu Tiến Q đã thu phế của người đánh bạc được 1.600.000đ, cho Phạm Hồng S vay số tiền 10.000.000 để sử dụng vào việc đánh bạc nên bị cáo Mầu Tiến Q giữ vai trò chính trong vụ án, do đó bị cáo phải chịu hình phạt cao hơn các bị cáo khác.
Bị cáo Phạm Hồng S là người trực tiếp cầm cái xóc đĩa, tham gia với vai trò tích cực cá cược, đánh bạc cùng với các bị cáo khác nên cũng cần có hình phạt nghiêm khắc hơn các bị cáo khác.
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã gây mất trật tự trị an tại địa phương. Để đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung cần có hình phạt thỏa đáng đối với các bị cáo.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Bị cáo Cầm Anh B, có 01 tiền án về tội đánh bạc. Ngày 23/02/2018 bị Công an huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La bắt về hành vi đánh bạc. Tại bản án số 35/2018/HSST ngày 19/6/2018 Cầm Anh B bị Tòa án nhân dân huyện Yên Châu xử phạt 07 tháng cải tạo không giam giữ về tội đánh bạc. Ngày 16/10/2018 Công an xã Hát Lót, huyện Mai S nhận được hồ sơ tiếp nhận của Cầm Anh B để theo dõi quản lý trong quá trình cải tạo không giam giữ. Ngày 10/4/2019 bị cáo Cầm Anh B phạm tội mới khi chưa hết thời gian chấp hành cải tạo không giam giữ. Theo luật quy định, bị cáo còn 01 tháng 06 ngày (Một tháng sáu ngày) cải tạo không giam giữ được chuyển sang hình phạt tù (Ba ngày cải tạo không giam giữ bằng 1 ngày tù).
Bị cáo Đỗ Văn H, ngày 02/02/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Mai S, tỉnh Sơn La xử phạt 02 năm 01 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 năm 02 tháng (chưa được xóa án tích). Ngày 10/4/2019 bị cáo phạm tội mới thuộc trường hợp tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS .
Do các bị cáo Cầm Anh B và Đỗ Văn H đều có tiền án, chưa được xóa án thuộc trường hợp tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS, các bị cáo phải chịu hình phạt của hai bản án theo quy định của Điều 56 BLHS Bị cáo Mầu Tiến Q phạm nhiều tội bị cáo phải chịu hình phạt chung của cả hai tội theo quy định của Điều 55 BLHS.
Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Duy V có nhân thân xấu: Năm 2012 bị Tòa án nhân dân huyện Mai tỉnh Sơn La xử phạt 16 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội cố ý gây thương tích. Thời gian thử thách 32 tháng. Năm 2001 bị Tòa án huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu xử phạt 5 triệu đồng (Năm triệu đồng) về tội đánh bạc (đều được xóa án tích).
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo trong vụ án trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đều khai báo rõ ràng thành khẩn, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ chung thuộc điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS.
Phạm Hồng S, Đỗ Văn H, Cầm Anh B, Nguyễn Duy V Nguyễn Mạnh H, Đặng Đình V, Nguyễn Xuân M, Đỗ Xuân C, Nguyễn Hoàng K đều bị Mầu Tiến Q rủ rê, tham gia vụ án với vai trò đồng phạm nên khi lượng hình cũng cần cân nhắc về hình phạt đối với các bị cáo theo quy định của Điều 17, Điều 58 BLHS.
Riêng bị cáo Phạm Hồng S có ông nội, bà nội có công với cách mạng, Đỗ Xuân C có bố đẻ là người có công với cách mạng nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ Luật hình sự 2015.
Các bị cáo Nguyễn Mạnh H, Đặng Đình V, Đỗ Xuân C, Nguyễn Hoàng K có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đều chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo Nguyễn Xuân M có một tiền sự từ năm 2008 (đã được xóa). Xét thấy các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đều bị rủ rê lôi kéo, tham gia vụ án với vai trò đồng phạm. Các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, do đó không cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, việc để các bị cáo cải tạo tại địa phương cũng đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Do hoàn cảnh các bị cáo có nhiều khó khăn không có tài sản có giá trị lớn nên không phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[6] Đối với hành vi và các đối tượng có liên quan: Mầu Tiến X, Doãn Thị Hồng Hạnh, Đỗ Trọng Biên, Điêu Chính Mừng, Nguyễn Thanh Sơn, Đỗ Văn E.
Sau khi bị bắt quả tang qua xác minh, xác định không tham gia đánh bạc nên cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ [8] Về vật chứng vụ án:
* Cần tịch thu xung quỹ nhà nước tài sản và số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc gồm :
- Tiền NHNN Việt Nam 51.200.000đ (Năm mươi mốt triệu hai trăm nghìn đồng) thu trên chiếu bạc, vụ Mầu Tiến Q cùng đồng bọn Tổ chức đánh bạc và Đánh bạc xảy ra ngày 10/4/2019 tại Tiểu khu 39, xã Cò Nòi, huyện Mai S, tỉnh Sơn La.
- Tiền NHNN Việt Nam 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tạm giữ của Mầu Tiến Q ngày 10/4/2019.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE màu vàng đã qua sử dụng, số IMEI 354386060159626, lắp 01 sim, tạm giữ của Mầu Tiến Q ngày 10/4/2019. Tịch thu tiêu hủy:
- 01 (một) chiếc bát sứ màu trắng, đường kính miệng bát 11cm, ở đáy bát có ghi chữ "Long Phuong" màu xanh.
- 05 (năm) chiếc bát sứ màu trắng nhãn hiệu Long Phương, loại bát ăn cơm đường kính miệng bát 11,5cm.
- 01 (một) chiếc đĩa sứ màu trắng hình tròn, đường kính 17,9cm, có hoa văn màu đỏ, vàng, xanh ở lòng đĩa.
- 04 (bốn) chiếc đĩa sứ màu trắng nhãn hiệu Long Phương, đường kính 18cm.
- 04 (bốn) quân vị hình bằng giấy bìa cứng hình tròn, đường kính 02cm, một mặt màu xanh trắng, một mặt màu đỏ trắng.
- 01 (một) ống kim loại hình trụ tròn đường kính 2cm, dài 7cm (loại tuýp vặn bulong).
- 01 (một) chiếc búa bằng kim loại màu bạc, cán dài 12cm, thân búa kích thước 5cm x 3cm.
- (một) mảnh gỗ màu nâu hình hộp rộng 7cm, dày 1cm, một cạch dài 12cm, một cạnh dài 11,5cm.
- 16 (mười sáu) bộ bài lá cao cấp nhãn hiệu Hoa Hồng.
- 01 (một) bộ bài chắn loại thần tài 100 cây tráng nhựa hai mặt.
- 01 (một) chiếc ví màu đỏ loại ví nữ.
- 01 (một) chiếc chiếu nhựa hoa văn màu xanh, kích thước 1,8m x 4m.
* Tạm giữ để đảm bảo thi hành án :
- Tiền NHNN Việt Nam 13.000.000đ (Mười ba triệu đồng) tạm giữ của Cầm Anh B ngày 10/4/2019.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE màu vàng đã qua sử dụng, số IMEI 355728077590542, lắp 01 sim, của Cầm Anh B ngày 10/4/2019.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu HTC màu bạc đã qua sử dụng, số IMEI 355991060577989, lắp 01 sim, tạm giữ của Cầm Anh B ngày 10/4/2019.
- 01 (Một) chiếc điện thoại SAMSUNG màu đen đã qua sử dụng, số IMEI 35214110009899101 và số 3521421000899901, lắp 01 sim, tạm giữ của Mầu Tiến Q ngày 10/4/2019.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhẫn hiệu SAMSUNG vỏ màu vàng đồng đã qua sử dụng, số IMEI 35159010394012/01 và số 351591103094010/01, lắp 02 sim, tạm giữ của Phạm Hồng S ngày 10/4/2019.
- 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu NOKIA vỏ màu đen đã qua sử dụng, số Seri 355839096992096, lắp 01 sim, tạm giữ của Phạm Hồng S ngày 10/4/2019.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG vỏ màu đen đã qua sử dụng, số IMEI 354021085923884/01 và số 35402208592388/01, lắp 01 sim, tạm giữ của Đặng Đình V ngày 10/4/2019.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE vỏ màu trắng đã qua sử dụng, số IMEI 352028062828533, lắp 01 sim, tạm giữ của Nguyễn Hoàng K ngày 10/4/2019.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE màu vàng đã qua sử dụng, số IMEI 359465081895759, lắp 01 sim, tạm giữ của Nguyễn Mạnh H ngày 10/4/2019.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE màu bạc đã qua sử dụng, số IMEI 352016073848871, lắp 01 sim, tạm giữ của Nguyễn Duy V ngày 10/4/2019.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO màu trắng đã qua sử dụng, số IMEI 863660031164475 và số 863660031164467, lắp 02 sim, tạm giữ của Đỗ Xuân C ngày 10/4/2019.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO màu vàng đã qua sử dụng, số IMEI 869600038198815 và số 869600038198807, lắp 02 sim, tạm giữ của Nguyễn Xuân M ngày 10/4/2019.
* Các tài sản và giấy tờ không liên quan đến vụ án cần trả lại cho những người liên quan gồm:
- Trả cho Đỗ Văn E : 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO vỏ màu hồng đã qua sử dụng, mặt trước bị nứt vỡ, số IMEI số Imei 868753621408751 và số 868753621408769, lắp 02 sim, tạm giữ của Đỗ Văn E ngày 10/4/2019.
- Trả cho Mầu Tiến X: 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE màu đen - bạc đã qua sử dụng, số IMEI 013991002990807, lắp 01 sim, tạm giữ của Mầu Tiến X ngày 10/4/2019; 01 (một) quyển sổ bìa màu đen có in chữ BUSINESS KB6-240T (đang lưu giữ trong hồ sơ vụ án).
* Giấy tờ không liên quan đến vụ án cần trả lại cho các bị cáo gồm :
- Trả cho Mầu Tiến Q 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 050654946 mang tên Mầu Tiến Q do Công an tỉnh Sơn La cấp ngày 28/11/2018.
- Trả cho bị cáo Nguyễn Hoàng K 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 051025286 mang tên Nguyễn Hoàng K do Công an tỉnh Sơn La cấp ngày 31/03/2014.
- Trả cho bị cáo Nguyễn Xuân M 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 151381202 mang tên Nguyễn Xuân M do Công an tỉnh Thái Bình cấp ngày 17/10/2008.
- Trả cho bị cáo Cầm Anh B 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 050584581 mang tên Cầm Anh B do Công an tỉnh Sơn La cấp ngày 04/01/2019.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1]. Về tội danh:
Tuyên bố bị cáo Mầu Tiến Q phạm hai tội: Tội tổ chức đánh bạc và tội Đánh bạc.
Các bị cáo Phạm Hồng S, Đỗ Văn H, Cầm Anh B, Đặng Đình V, Nguyễn Xuân M, Nguyễn Hoàng K, Nguyễn Mạnh H, Đỗ Xuân C, Nguyễn Duy V phạm tội Đánh bạc.
[2]. Về hình phạt:
[2.1]. Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 322; khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điều 17, Điều 58 BLHS phạt tiền đối với bị cáo Mầu Tiến Q 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) về tội Tổ chức đánh bạc;
15 tháng tù về tội Đánh bạc;
Áp dụng Điều 55 BLHS, buộc bị cáo phải chịu hình phạt chung cho 2 tội là 15 (Mười lăm) tháng tù và phạt tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng). Thời hạn tù tính từ ngày vào trại chấp hành án, được khấu trừ đi 36 ngày, tạm giữ, tạm giam.
[2.2]. Áp dụng khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; khoản 1 Điều 53; Điều 58 BLHS, xử phạt bị cáo Cầm Anh B 10 tháng tù (Mười tháng tù) về tội Đánh bạc. Thời hạn tù tính từ ngày vào trại chấp hành án, được khấu trừ đi 35 ngày, tạm giữ, tạm giam.
[2.3]. Áp dụng khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; khoản 1 Điều 53; Điều 56; Điều 58, khoản 5, Điều 65 BLHS, xử phạt bị cáo Đỗ Văn H 10 tháng tù về tội Đánh bạc. Chuyển hình phạt tù cho hưởng án treo theo Bản án số 26/2016/HSST ngày 02/02/2016 của TAND huyện Mai S là 02 năm 01 tháng tù (Hai năm một tháng tù) về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, buộc bị cáo phải chịu hình phạt tù cho 2 tội là 2 năm 11 tháng tù (Hai năm mười một tháng tù). Thời hạn tù tính từ ngày 10/4/2019.
[2.4]. Áp dụng khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điều 17; Điều 58 BLHS, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Duy V 10 tháng tù (Mười tháng tù) về tội Đánh bạc. Thời hạn tù tính từ ngày vào trại chấp hành án, được khấu trừ đi 05 ngày, tạm giữ, tạm giam.
[2.5]. Áp dụng khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điều 17; Điều 58 BLHS, xử phạt bị cáo Phạm Hồng S 10 tháng tù (Mười tháng tù) về tội Đánh bạc. Thời hạn tù tính từ ngày vào trại chấp hành án, được khấu trừ đi 35 ngày, tạm giữ, tạm giam.
[2.6]. Áp dụng khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điều 17; Điều 58 BLHS, xử phạt bị cáo Đặng Đình V 10 tháng tù (Mười tháng tù) về tội Đánh bạc nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách 20 tháng (Hai mươi tháng), tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
[2.7]. Áp dụng khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điều 17; Điều 58; Điều 65 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân M 10 tháng tù (Mười tháng tù) về tội Đánh bạc nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách 20 tháng (Hai mươi tháng), thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm
2.8]. Áp dụng khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điều 17; Điều 58; Điều 65 BLHS, xử phạt bị cáo Đỗ Xuân C 10 tháng tù (Mười tháng tù) nhưng cho hưởng án treo về tội Đánh bạc. Thời gian thử thách 20 tháng (Hai mươi tháng), tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
[2.9]. Áp dụng khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điều 17; Điều 58; Điều 65 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng K 10 tháng tù (Mười tháng tù) nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách 20 tháng (Hai mươi tháng), thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
[2.10]. Áp dụng khoản 1, Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điều 17; Điều 58; Điều 65 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H 10 tháng tù (Mười tháng tù) về tội Đánh bạc nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách 20 tháng (Hai mươi tháng), thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao các bị cáo Nguyễn Mạnh H, Đặng Đình V, Nguyễn Xuân M, Đỗ Xuân C, Nguyễn Hoàng K cho Ủy ban nhân dân xã Cò Nòi Mai S, Sơn La quản lý giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo Nguyễn Mạnh H, Đặng Đình V, Nguyễn Xuân M, Đỗ Xuân C, Nguyễn Hoàng K có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Về vật chứng vụ án:
Căn cứ khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c, khoản 2, Điều 106 Bộ luât Tố tụng Hình sự năm 2015;
[3.1] Tịch thu xung quỹ nhà nước:
- Tiền NHNN Việt Nam 51.200.000đ (Năm mươi mốt triệu hai trăm nghìn đồng) thu trên chiếu bạc, vụ Mầu Tiến Q cùng đồng bọn Tổ chức đánh bạc và Đánh bạc xảy ra ngày 10/4/2019 tại Tiểu khu 39, xã Cò Nòi, huyện Mai S, tỉnh Sơn La. (Kết luận giám định số 918/20.5.209 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, thì tiền gửi giám định là : Tiền thật).
- Tiền NHNN Việt Nam 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tạm giữ của Mầu Tiến Q ngày 10/4/2019. (Kết luận giám định số 918/20.5.209 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, thì tiền gửi giám định là : Tiền thật).
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE vỏ màu vàng đã qua sử dụng (điện thoại cảm ứng), số IMEI 354386060159626, lắp 01 sim trong máy, tạm giữ của Mầu Tiến Q ngày 10/4/2019. Hai bên giao nhận không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của điện thoại.
[3.2] Tịch thu tiêu hủy:
- 01 (một) chiếc bát sứ màu trắng, đường kính miệng bát 11cm, ở trôn bát có ghi chữ "Long Phương" màu xanh.
- 05 (năm) chiếc bát sứ màu trắng nhãn hiệu Long Phương, loại bát ăn cơm đường kính miệng bát 11,5cm. Bát đã qua sử dụng.
- 01 (một) chiếc đĩa màu trắng, đường kính 17,9cm, có hoa văn màu đỏ, vàng, xanh ở lòng đĩa.
- 04 (bốn) chiếc đĩa sứ màu trắng, nhãn hiệu Long Phương , đường kính 18cm (Trong bốn chiếc đĩa có 01 chiếc đĩa tại mặt đáy có viết chữ, ký hiệu không rõ tên bằng mực màu xanh). Đĩa đã qua sử dụng.
- 04 (bốn) quân vị hình tròn, đường kính 02 cm, một mặt màu xanh - trắng, một mặt màu đỏ - trắng.
- 01 (một) thanh kim loại hình trụ tròn, rỗng ở giữa (loại tuýp vặn bulong), màu bạc dài 7cm, một đầu được mài sắc cạnh, đường kính 2cm.
- 01 (một) chiếc búa kim loại màu bạc, cán búa dài 12cm, thân búa dài 5cm, chiều rộng 3cm.
- (một) mảnh gỗ màu nâu, một cạch dài 12cm, một cạnh dài 11,5cm, rộng 7cm, dày 1cm, một mặt có nhiều vết đục hình tròn.
- 16 (mười sáu) bộ bài lá cao cấp nhãn hiệu « Hoa Hồng ».
- 01 (một) bộ bài chắn loại thần tài 100 cây tráng nhựa hai mặt.
- 01 (một) chiếc ví màu đỏ loại ví nữ, dài 25cm, rộng 10cm. Đã qua sử dụng.
- 01 (một) chiếc chiếu loại chiếu đôi, kích thước 1,8m x 4m, chiếu có nhiều hoa văn màu xanh – đỏ - trắng, ở mép chiếu có dòng chữ « CHUNG ANH THAI BINH ». Chiếu đã qua sử dụng.
[3.3] Tạm giữ để đảm bảo thi hành án :
- Tiền NHNN Việt Nam 13.000.000đ (Mười ba triệu đồng) tạm giữ của Cầm Anh B ngày 10/4/2019. (Kết luận giám định số 918/20.5.209 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, thì tiền gửi giám định là : Tiền thật).
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE màu vàng đã qua sử dụng, số IMEI 355728077590542, lắp 01 sim trong máy, thu giữ của Cầm Anh B ngày 10/4/2019. Hai bên giao nhận không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của điện thoại.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu HTC màu bạc đã qua sử dụng, số IMEI 355991060577989, lắp 01 sim trong máy, tạm giữ của Cầm Anh B ngày 10/4/2019. Hai bên giao nhận không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của điện thoại.
- 01 (Một) chiếc điện thoại SAMSUNG màu đen đã qua sử dụng (điện thoại cảm ứng), có 02 số IMEI: IMEI 1 : 35214110009899101 và IMEI 2: 3521421000899901, lắp 01 sim trong máy, tạm giữ của Mầu Tiến Q ngày 10/4/2019. Hai bên giao nhận không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của điện thoại.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG vỏ màu vàng đồng (điện thoại cảm ứng) đã qua sử dụng, có hai IMEI và có 04 số là: IMEI 1: 401/2; IMEI 2: 401/0, kèm 02 sim trong máy, điện thoại có nhiều vết trần xước, tạm giữ của Phạm Hồng S ngày 10/4/2019. Hai bên giao nhận không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của điện thoại.
- 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu NOKIA vỏ màu đen đã qua sử dụng (điện thoại không cảm ứng), MODEL: TA-1010; IMEI có 04 số cuối 2096, kèm 01 sim trong máy, tạm giữ của Phạm Hồng S ngày 10/4/2019. Hai bên giao nhận không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của điện thoại.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG vỏ màu đen đã qua sử dụng (điện thoại cảm ứng), có 2 số IMEI: số IMEI 1: 354021085923884/01 và số IMEI 2: 35402208592388/01, lắp 01 sim trong máy, tạm giữ của Đặng Đình V ngày 10/4/2019. Hai bên giao nhận không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của điện thoại.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE vỏ màu trắng đã qua sử dụng (điện thoại cảm ứng), số IMEI 352028062828533, lắp 01 sim trong máy, tạm giữ của Nguyễn Hoàng K ngày 10/4/2019. Hai bên giao nhận không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của điện thoại.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE màu vàng đã qua sử dụng (điện thoại cảm ứng); MODEL: A1660, có số IMEI 359465081895759, lắp 01 sim trong máy, tạm giữ của Nguyễn Mạnh H ngày 10/4/2019. Hai bên giao nhận không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của điện thoại.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE màu bạc đã qua sử dụng (điện thoại cảm ứng), số IMEI 352016073848871, lắp 01 sim, tạm giữ của Nguyễn Duy V ngày 10/4/2019. Hai bên giao nhận không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của điện thoại.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO màu trắng đã qua sử dụng (điện thoại cảm ứng), số IMEI 863660031164475 và số 863660031164467, lắp 02 sim, tạm giữ của Đỗ Xuân C ngày 10/4/2019. Hai bên giao nhận không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của điện thoại.
- 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO màu vàng đã qua sử dụng (điện thoại cảm ứng); có 2 số IMEI: số IMEI 1: 869600038198815 và số IMEI 2: 869600038198807, lắp 02 sim trong máy, tạm giữ của Nguyễn Xuân M ngày 10/4/2019. Hai bên giao nhận không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của điện thoại.
[3.4] Trả cho các bị cáo và những người liên quan các tài sản và giấy tờ sau:
- Trả cho Đỗ Văn E : 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO vỏ màu hồng đã qua sử dụng (điện thoại cảm ứng), màn hình bị nứt vỡ; có 2 số IMEI: số IMEI 1: 868753621408751 và số IMEI 2: 868753621408769, lắp 02 sim trong máy, tạm giữ của Đỗ Văn E ngày 10/4/2019. Hai bên giao nhận không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của điện thoại.
- Trả cho Mầu Tiến X: 01 (Một) chiếc điện thoại nhãn hiệu IPHONE màu đen - bạc đã qua sử dụng (điện thoại cảm ứng), số IMEI 013991002990807, lắp 01 sim trong máy, tạm giữ của Mầu Tiến X ngày 10/4/2019. Hai bên giao nhận không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của điện thoại. Và 01 (một) quyển sổ bìa màu đen dài 23cm, rộng 15cm, mặt trước bên trên bìa quyển sổ có dòng chữ và số « BUSINESS KB6-240T ». Bên trong quyển sổ có 09 (chín) tờ giấy có chữ viết tay.
- Trả cho Mầu Tiến Q 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 050654946 mang tên Mầu Tiến Q do Công an tỉnh Sơn La cấp ngày 28/11/2018.
- Trả cho bị cáo Nguyễn Hoàng K 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 051025286 mang tên Nguyễn Hoàng K do Công an tỉnh Sơn La cấp ngày 31/03/2014.
- Trả cho bị cáo Nguyễn Xuân M 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 151381202 mang tên Nguyễn Xuân M do Công an tỉnh Thái Bình cấp ngày 17/10/2008.
- Trả cho bị cáo Cầm Anh B 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 050584581 mang tên Cầm Anh B do Công an tỉnh Sơn La cấp ngày 04/01/2019.
[4] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:
Các bị cáo Mầu Tiến Q, Phạm Hồng S, Đỗ Văn H, Nguyễn Duy V, Nguyễn Mạnh H, Cầm Anh B, Đặng Đình V, Nguyễn Xuân M, Đỗ Xuân C, Nguyễn Hoàng K, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án./.
“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
Bản án 82/2019/HSST ngày 11/09/2019 về tội tổ chức đánh bạc và đánh bạc
Số hiệu: | 82/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về