Bản án 68/2017/HSPT ngày 20/07/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 68/2017/HSPT NGÀY 20/07/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 58/2017/HSPT ngày 12 tháng 4 năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Thị T can tội: Trộm cắp tài sản.

Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 10/2017/HSST ngày 02 tháng 3 năm 2017 của Toà án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

Họ và tên bị cáo: Nguyễn Thị T; Sinh năm: 1989;

Trú tại: Tổ 5, thôn K, xã T, huyện P, tỉnh Quảng Nam;

Nghề nghiệp: Uốn tóc;

Trình độ học vấn: 11/12;

Con ông Nguyễn Hồng S và bà Nguyễn Thị V;

Có chồng Huỳnh Ngọc T, sinh năm 1988 và 02 con, lớn nhất sinh ngày 01/9/2012, nhỏ nhất sinh ngày 22/4/2014.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/11/2016 đến ngày 17/01/2017 được thay thế biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lĩnh. Bị cáo tại ngoại; Có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân nhân dân thành phố Quảng Ngãi thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 21/11/2016, Nguyễn Thị T điều khiển xe mô tô biển số 92B1 – 02896 đi xuống xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi. T điều khiển xe đi tìm những ngôi nhà cũ, neo đơn chỉ có người già ở một mình để thực hiện hành vi lừa đảo hoặc trộm cắp tài sản. Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, T thấy bà Trương Thị L ở nhà một mình nên T chủ động đi vào nhà gặp bà L và tự giới thiệu mình là cán bộ xã Tịnh Khê đến liên hệ để làm nhà tình nghĩa cho những người có công với cách mạng, thương binh, liệt sĩ, trong danh sách hỗ trợ làm nhà có bà L. Tiếp đó, T thông báo số tiền mà nhà nước hỗ trợ làm nhà cho bà L là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng), nhưng bà L phải nộp số tiền là 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) vào ngân sách nhà nước để làm nhà và phải cho T kiểm tra xem có đủ số tiền đó hay không. Bà L tin tưởng nên vào phòng ngủ lấy đưa cho T xem số vàng đã tích góp được trong thời gian qua gồm: 01 (một) sợi dây chuyền vàng 03 chỉ; 01 (một) mặt dây chuyền có đính đá 05 phân; 01 (một) lắc tay vàng 04 chỉ; 01 (một) nhẫn vàng 02 chỉ và 02 (hai) nhẫn vàng (mỗi chiếc một chỉ). Khi thấy bà L đưa vàng ra xem thì T nói bà L: “ Bác đem vàng cất đi, lát nữa đoàn kiểm tra đến thì đem ra đưa cho đoàn xem”, bà L đem số vàng trên cất lại vào tủ đồ. Lúc này T đi theo nhìn vị trí bà L cất vàng rồi đi ra trước nhà. Khi bà L cất vàng xong và đi ra thì T nói bà L đi mua nước để tiếp đoàn kiểm tra. Bà L tưởng thật nên đi mua nước. Lúc này, lợi dụng bà L không có ở nhà T đi vào phòng ngủ nơi bà L cất vàng và lấy toàn bộ số vàng bà L cất giữ rồi đi ra ngoài lên xe bỏ trốn. Bà L quay về thấy T bỏ đi và có biểu hiện khả nghi nên đã hô hoán, thì anh Bùi Tấn T ở gần đó nghe thấy nên đã điều khiển xe máy truy đuổi T theo đường Quốc lộ 24 B từ hướng Đông lên Tây. Anh Nguyễn Tấn H đang điều khiển xe đến khu vực xã Tịnh Châu, thành phố Quảng Ngãi thì nghe anh T truy hô nên truy đuổi T đến chợ Tịnh An, thành phố Quảng Ngãi thì bắt giữ được T cùng tang vật giao cho Công an xã Tịnh An, thành phố Quảng Ngãi lập biên bản bắt người thực hiện hành vi phạm tội quả tang.

Bà L khi vào phòng ngủ kiểm tra thì phát hiện bị mất toàn bộ số vàng đã cất giữ, nên làm đơn báo Công an.

Ngày 29/11/2016, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Quảng Ngãi tiến hành định giá tài sản, kết luận:

- 01 (một) sợi dây chuyền vàng có ký hiệu “MD980”, bằng vàng 98 có trọng lượng 03 chỉ, trị giá 9.600.000 đồng.

- 01 (một) mặt dây chuyền bằng vàng 98, có đính đá trang sức phật ký hiệu “980” có trọng lượng 05 phân , trị giá: 1.600.000 đồng.

- 01 (một) chiếc nhẫn ghi ký hiệu “Sáng viên” bằng vàng 9999 có trọng lượng 02 chỉ, trị giá: 6.500.000 đồng.

- 01 (một) lắc tay có ký hiệu “MD980”, bằng vàng 98 có trọng lượng 04 chỉ, trị giá: 12.800.000 đồng.

- 01 (một) chiếc nhẫn ghi ký hiệu “Sáng viên” bằng vàng 9999 có trọng lượng 01 chỉ: 3.250.000 đồng.

- 01 (một) chiếc nhẫn ghi ký hiệu “Sáng viên” bằng vàng 9999 có trọng lượng 01 chỉ: 3.250.000 đồng.

Như vậy, tổng trị giá tài sản bị cáo chiếm đoạt là 37.000.000 đồng (Ba mươi bảy triệu đồng).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 10/2017/HSST ngày 02/3/2017, Toà án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Áp dụng: khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/11/2016 đến ngày 17/01/2017.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 02/3/2017, bị cáo Nguyễn Thị T có đơn kháng cáo với nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo

XÉT THẤY

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Thị T, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Ngày 29/3/2007, bị cáo Nguyễn Thị T bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam kết án 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; ngày 23/01/2009 chấp hành xong hình phạt và đã được xóa án tích, bị cáo không chịu rèn luyện bản thân để trở thành người tốt cho xã hội mà lại tiếp tục đến nhà bà Trương Thị L giả danh cán bộ xã Tịnh Khê liên hệ làm nhà tình nghĩa cho bà L rồi lén lút chiếm đoạt vàng của bà L.

Tòa án cấp sơ thẩm đó đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” là phù hợp. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đề nghị Hội đồng xét xử: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 10/2017/HSST ngày 02/3/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo Nguyễn Thị T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Vì các lẽ trên

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án.

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 10/2017/HSST ngày 02/3/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

Áp dụng: khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án và được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/11/2016 đến ngày 17/01/2017.

Bị cáo Nguyễn Thị T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

325
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2017/HSPT ngày 20/07/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:68/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về