Bản án 67/2019/HS-ST ngày 16/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TĨNH GIA, TỈNH THANH HÓA 

BẢN ÁN 67/2019/HS-ST NGÀY 16/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 8 năm 2019, tại Toà án nhân dân huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 68/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Đng Sử D; sinh ngày 09/4/1997 tại xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: thôn O, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Sử T, sinh năm 1974 và bà Dương Thị T (đã chết); có vợ là Trần Thị H, sinh năm 1997 và 01 con, sinh năm 2017;

Tiền án, Tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 14/7/2014, bị Tòa án nhân dân dân huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 08/4/2019, bị Công an huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa xử phạt cảnh cáo về hành vi vi phạm hành chính “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị can bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/12/2018 đến nay;

- Người làm chứng:

+ Chị Lê Thị N - Sinh năm: 1979

Trú tại: Thôn C, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

+ Anh Trần Văn T - Sinh năm: 1986

+ Anh Nguyễn Văn T1 - Sinh năm: 1999

Đều trú tại: Thôn L, xã Hải T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

+ Anh Đặng Xuân Đ - Sinh năm: 1999

Trú tại: Thôn L, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

+ Chị Lim Thị N1 - Sinh năm: 1984

Trú tại: Bản T, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An

+ Chị Nguyễn Thị N2 - Sinh năm: 2001

Trú tại: Thôn P, xã Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa

+ Anh Phạm Bá T2 - Sinh năm: 1980

+ Anh Lê Văn T3 - Sinh năm: 1980

Đều trú tại: Thôn B, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ 00 phút, ngày 01/12/2018, Lê Thị N, sinh 1979, trú tại thôn C, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa cùng với Trần Văn T, sinh 1986 và Nguyễn Văn T1, sinh năm 1999 đều trú tại thôn L, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa đến quán Sky 36 thuộc thôn B, xã H để hát karaoke. Tại đây, N đã rủ thêm Đặng Sử D và Đặng Xuân Đ, sinh năm 1999, trú tại thôn L, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa đến phòng hát VIP 103 hát cùng. Quá trình hát tại quán thì cả nhóm nảy sinh ý định sử dụng trái phép chất ma túy. Lúc đó, Đặng Sử D nói với mọi người là D mang theo ma túy, nhưng không có bộ dụng cụ để sử dụng ma túy nên Lê Thị N đã bảo T về nhà ở của N lấy cóng thủy tinh đang có ma túy bám dính trong cóng mang đến để làm bộ dụng cụ sử dụng ma túy, T không đi mà bảo T1 đi. N bảo T1 đến nhà lấy cóng thủy tinh và đón 02 người phụ nữ đang có mặt tại nhà ở của N (tên là Lim Thị N1 và Nguyễn Thị N2) đến quán hát luôn. T1 mượn xe máy của Đ đến nhà N thì gặp Lim Thị N1, sinh năm 1984, trú tại thôn T, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An và Nguyễn Thị N2, sinh năm 2001, trú tại thôn P, xã Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Lúc này, T1 bảo N1 lấy cóng thủy tinh và đi cùng T1 lên quán hát để sử dụng ma túy. N1 đồng ý và đi ra bờ hè nhà lấy dưới gầm ghế 01 cóng thủy tinh đưa cho T1, sau đó N1 và N2 cùng T1 đi lên phòng hát VIP 103 quán Karaoke Sky 36 cùng với mọi người. Khi lên đến nơi T1 cắm cóng thủy tinh vào bộ dụng cụ tự chế mà D và Đ đã làm sẵn. Trần Văn T là người lấy bật lửa trong người ra đốt làm ma túy trong cóng bốc hơi và sử dụng bằng hình thức hút, sau đó lần lượt T1, N, D, Đ và N1 sử dụng một lượt thì cóng thủy tinh bị vỡ nên cả nhóm không sử dụng ma túy mà chỉ hát karaoke thì Nguyễn Văn T1 và Trần Văn T đi ra khỏi phòng hát về nhà. Do vẫn có nhu cầu tiếp tục sử dụng ma túy nên D sai Đ đi kiếm giấy bạc đem về phòng rồi D và N1 cắt giấy bạc quấn tròn bỏ vào ống hút khác cắm vào nắp chai nhựa, D lấy ma túy từ trong người ra bỏ vào chỗ giấy bạc đã quấn rồi đốt để mọi người sử dụng. Đặng Sử D, Đặng Xuân Đ, Lê Thị N và Lim Thị N1 tiếp tục ở lại sử dụng ma túy bằng bộ dụng cụ mới. Nguyễn Thị N2 là người trong nhóm không sử dụng ma túy chỉ ngồi hát và xem mọi người sử dụng. Đến khoảng 10 giờ 00 phút cùng ngày, D, Đ, N và N1 đang sử dụng trái phép chất ma túy thì bị Công an huyện Tĩnh Gia bắt quả tang. Thu giữ tại nơi bắt giữ các đối tượng: 02 chiếc bật lửa ga đã qua sử dụng; 01 chai nhựa màu trắng có nắp chai màu trắng đục thủng 02 lỗ cắm các ống hút nhựa, có một ống hút được gắn giấy bạc ở đầu ống hút; thu giữ trong người Đặng Sử D 01 túi nilon màu trắng viền màu xanh chứa 05 viên nén màu đỏ có 4 viên ở trạng thái nguyên, 01 trong trạng thái vỡ và 02 cục nhỏ dạng tinh thể màu trắng; thu giữ tại bên trong phía dưới gầm ghế ngồi trong phòng hát VIP 103 quán Karaoke Sky 36, 01 vỏ bao thuốc lá loại thuốc lá 555 bên trong gói thuốc có chứa 01 túi ni lon màu trắng viền màu đỏ chứa 37 viên nén màu đỏ; 02 túi nilon màu trắng viền màu đỏ trong mỗi túi nilon này đều chứa 02 viên nén màu vàng; 01 chiếc xe mô tô Biển kiểm soát 36C1-30012; 01 máy điện thoại di động màu đen, trắng, xanh lắp số sim 01656796500 trên máy có đề chữ NOKIA của Đặng Sử D; 01 máy điện thoại di động màu đen lắp số sim 0965899872 trên máy có đề chữ NOKIA của Lê Thị N; 01 máy điện thoại di động màu đen lắp số sim 0365188567 trên máy có đề chữ NOKIA của Lim Thị N1.

Tại bản kết luận giám định số 86/MT-PC09 ngày 04 tháng 12 năm 2018 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:

- 04 (bốn) viên nén màu đỏ và các cục vỡ màu đỏ thu giữ trong người Đặng Sử D khi bắt quả tang có tổng khối lượng là 0,512g (không phẩy năm trăm mười hai gam) qua giám định là ma túy loại Methamphetamine.

- 02 (hai) cục chất dạng tinh thể màu trắng thu giữ trong người Đặng Sử D khi bắt quả tang có tổng khối lượng là 0,168g (không phẩy một trăm sáu mươi tám gam) qua giám định là ma túy loại Methamphetamine.

- 37 (ba mươi bảy) viên nén màu đỏ thu giữ bên trong vỏ bao thuốc lá 555 phía dưới gầm ghế phòng hát VIP 103 quán Karaoke Sky 36 khi bắt quả tang có tổng khối lượng là 3,694g (ba phẩy sáu trăm chín mươi tư gam) qua giám định là ma túy loại Methamphetamine.

- 04 (bốn) viên nén màu vàng thu giữ bên trong vỏ bao thuốc lá 555 phía dưới gầm ghế trong phòng hát VIP 103 quán Karaoke Sky 36 khi bắt quả tang có tổng khối lượng là 1,516g (một phẩy năm trăm mười sáu gam) qua giám định là ma túy loại MDMA.

- Muội khói màu nâu bám dính bên trong giấy bạc tại bộ dụng cụ tự chế qua giám định là ma túy loại Methamphetamine.

(Methamphetamine, MDMA là chất ma túy được quy định tại Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ).

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đặng Sử D tại thôn O, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tĩnh Gia cũng tiến hành khám xét nơi ở của các đối tượng Đặng Xuân Đ, Lê Thị N, Trần Văn T, Nguyễn Văn T1, Lim Thị N1, Nguyễn Thị N2 không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Quá trình điều tra, Đặng Sử D khai nhận số ma túy thu giữ trong người gồm 0,512g và 0,168g, tổng khối lượng là 0,68g ma túy loại Methamphetamine là chất ma túy mà D đem theo để sử dụng.

Đi với số ma túy thu giữ trong bao thuốc lá 555 tại phía dưới gầm ghế trong phòng hát VIP 103 quán Karaoke Sky 36 có chứa 01 túi nilon màu trắng, viền màu đỏ chứa 37 viên nén màu đỏ có tổng khối lượng là 3,694gam ma túy loại Methamphetamin, 04 viên nén màu vàng có tổng khối lượng 1,516gam ma túy loại MDMA.

Trong thành phần nước tiểu của Đặng Sử D và Đặng Xuân Đ có hoạt chất dương tính với ma túy loai MDMA, quá trình điều tra xác định D và Đ đã sử dụng một loại ma túy dạng viên tại nhà mình trước ngày bị bắt quả tang nên chưa đủ căn cứ để chứng minh D, Đ có liên quan đến 04 viên nén màu vàng có tổng khối lượng 1,516gam ma túy loại MDMA.

Quá trình điều tra chưa xác định được nguồn gốc số ma túy trong vỏ bao thuốc lá 555 thu giữ dưới gầm ghế trong phòng hát Vip 103 quán karaoke Sy 36. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tĩnh Gia sẽ tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại Bản cáo trạng số 75/CTr-VKSTG ngày 22/7/2019, Viện kiểm sât nhân dân huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo Đặng Sử D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, điểm t khoản 1 Điều 51; điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 3; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên bố bị cáo Đặng Sử D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị xử phạt bị cáo Đặng Sử D từ 15 đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung; tịch thu tiêu hủy 0,425g, các cục chất màu đỏ là ma túy loại Methamphetamine; 0,123g chất dạng tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine là mẫu vật còn lại sau giám định, 01 chai nhựa màu trắng nắp màu trắng, trên nắp chai đục 02 lỗ cắm ống hút nhựa, trong đó một ống được gắn giấy bạc ở đầu ống và 02 bật lửa ga đã qua sử dụng. Giao lại 3,389g tương ứng với 33 viên nén màu đỏ là ma túy loại Methamphetamine; và 1,096g tương ứng với 03 viên nén màu vàng là ma túy loại MDMA cho cơ quan điều tra công an huyện Tĩnh Gia; bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không tranh luận lại quan điểm luận tội của Đại diện Viện kiểm sát và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tĩnh Gia, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tĩnh Gia, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Phân tích những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội:

Tại phiên tòa Đặng Sử D đã khai nhận: Vào khoảng 10 giờ 00 phút ngày 01/12/2018, tại quán Sky 36 thuộc thôn B, xã H, huyện T, Thanh Hóa, Công an huyện Tĩnh Gia đã phát hiện bắt quả tang Đặng Sử D có hành vi tàng trữ 04 viên nén màu đỏ và các cục vỡ màu đỏ có tổng khối lượng là 0,512g là ma túy loại Methamphetamine và 02 cục chất dạng tinh thể màu trắng có tổng khối lượng là 0,168g là ma túy loại Methamphetamine. Tổng khối lượng ma túy là 0,68g (không phẩy sáu mươi tám gam) Methamphetamine.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với lời khai người làm chứng. Do đó có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo có đủ các dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi và hậu quả thấy rằng: Hiện nay trên địa bàn huyện Tĩnh Gia nói riêng, cũng như trên toàn quốc nói chung, tình trạng mua bán, tàng trữ và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy đang diễn ra khá phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, vi phạm chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, làm gia tăng tệ nạn nghiện ma túy và cũng làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác. Hành vi của bị cáo làm cho nhân dân hoang mang, lo sợ. Vì vậy, cần phải tuyên cho bị cáo một hình phạt thật nghiêm và cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Đi với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Đặng Sử D, Đặng Xuân Đ, Lê Thị N, Trần Văn T, Nguyễn Văn T1 và Lim Thị N1. Tuy nhiên, cả sáu đối tượng đều là người nghiện ma túy hiện đang bị chính quyền địa phương áp dụng biện pháp cai nghiện tại gia đình, cộng đồng; việc sử dụng ma túy của sáu người này là tự nguyện và trong quá trình sử dụng trái phép chất ma túy. Lê Thị N là người cung cấp địa điểm thuê phòng hát VIP 103 quán Karaoke Sky 36, cung cấp cóng thủy tinh và ma túy trong cóng; Đặng Sử D là người cung cấp ma túy để mọi người sử dụng và lắp bộ dụng cụ tự chế để sử dụng ma túy; Đặng Xuân Đ là người cung cấp giấy bạc và giúp sức với D trong việc lắp bộ dụng cụ sử dụng ma túy; Trần Văn T là người cung cấp bật lửa để đốt ma túy sử dụng; Nguyễn Văn T1 là người đi lấy cóng thủy tinh và đón Lim Thị N1 đến để sử dụng ma túy; Lim Thị N1 là người giúp sức cho Lê Thị N trong việc cung cấp cóng thủy tinh và giúp sức cho Đặng Sử D trong việc lắp ráp dụng cụ sử dụng ma túy. Các đối tượng nghiện ma túy cùng tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cho nhau nên hành vi trên của các đối tượng không cấu thành tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Các đối tượng này đã bị Công an huyện Tĩnh Gia xử phạt vi phạm hành chính là hoàn toàn chính xác. Do đó hội đồng xét xử miễn xét.

Đi với Nguyễn Thị N2 là người có mặt tại nơi các đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy nhưng N2 không sử dụng ma túy nên chỉ xem xét là người làm chứng trong vụ án.

Người đàn ông lạ mặt đã bán ma túy cho Đặng Sử D tại khu vực cầu Bố thuộc phường Đông Vệ, Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày 30 tháng 11 năm 2018. Quá trình điều tra chưa chứng minh được tên, tuổi, địa chỉ của những người này, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tĩnh Gia sẽ tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

Đi với anh Phạm Bá T2, sinh năm 1980; trú tại thôn B, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa là chủ cơ sở kinh doanh Karaoke tại quán hát Sky 36, khi phát hiện thấy các đối tượng có dấu hiệu sử dụng ma túy tại cơ sở kinh doanh của mình, anh T2 đã báo cáo cơ quan có chức năng bắt giữ xử lý theo quy định. Do đó hành vi của anh Phạm Bá T2 không vi phạm pháp luật.

[4] Xét về nhân thân và trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tiền án, tiền sự, nhưng về nhân thân là ngày 14/7/2014 bị Tòa án nhân dân dân huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 08/4/2019, bị Công an huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa xử phạt cảnh cáo về hành vi vi phạm hành chính “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Đây không phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nhưng khi lượng hình cũng cần phải xem xét để tuyên cho bị cáo 01 hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và giúp cơ quan điều tra công an huyện Tĩnh Gia phá 02 vụ án ma túy nên bị cáo được áp dụng điểm s và điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS làm tình tiết giảm nhẹ, lượng giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được tính khoan hồng của pháp luật.

[5] Xét về phần hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Xét về vật chứng:

- Đối với chiếc xe mô tô Biển kiểm soát 36C1-30012 thuộc sở hữu của Công ty TNHH XDVT H do ông Nguyễn Anh Đ1 làm giám đốc. Công ty TNHH XDVT H và ông Đ1 không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của Đặng Sử D, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tĩnh Gia đã trả lại chiếc xe mô tô này cho Công ty TNHH XDVT H là đúng quy định của Pháp luật. .

- Đối với ba chiếc điện thoại di động thu giữ của Đặng Sử D, Lê Thị N và Lim Thi N1, xét thấy không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tĩnh Gia đã xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu theo quy định.

- Đối với 0,425g các cục chất màu đỏ là ma túy loại Methamphetamine và 0,123g chất dạng tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine là mẫu vật còn lại sau giám định, hiện đang được nhập kho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tĩnh Gia theo phiếu nhập kho số NK2019/65 ngày 02/8/2019, đây là số ma túy của bị cáo D tàng trữ thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS để tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 chai nhựa màu trắng nắp màu trắng, trên nắp chai đụng 02 lỗ cắm ống hút nhựa, trong đó một ống được gắn giấy bạc ở đầu ống (mẫu vật là ma túy đã sử dụng hết trong quá trình giám định); 02 bật lửa ga đã qua sử dụng, hiện đã được nhập kho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tĩnh Gia theo phiếu nhập kho số NK2019/65 ngày 02/8/2019, đây là công cụ mà bị cáo và các đối tượng nghiện dùng để sử dụng ma túy. Do đó căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS để tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 3,389g tương ứng với 33 viên nén màu đỏ là ma túy loại Methamphetamine và 1,096g tương ứng với 03 viên nén màu vàng là ma túy loại MDMA là mẫu vật còn lại sau giám định, hiện đang được nhập kho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tĩnh Gia theo phiếu nhập kho số NK2019/65 ngày 02/8/2019, đây là số ma túy không phải là vật chứng của vụ án, nên căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS giao lại cho số ma túy này cho Cơ quan điều tra Công an huyện Tĩnh Gia để tiếp tục điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

[7] Xét về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 điều 136 BLTTHS năm 2015; Điều 3; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, điểm t khoản 1 Điều 51; điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 và Điều 38 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 và khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án và điểm 1 mục I bản danh mục án phí, lệ phí tòa án.

- Tuyên bố: Đặng Sử D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Đặng Sử D 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/12/2018.

- Về vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy 0,425g các cục chất màu đỏ là ma túy loại Methamphetamine; 0,123g chất dạng tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine là mẫu vật còn lại sau giám định, 01 chai nhựa màu trắng nắp màu trắng, trên nắp chai đục 02 lỗ cắm ống hút nhựa, trong đó một ống được gắn giấy bạc ở đầu ống và 02 bật lửa ga đã qua sử dụng, hiện đang được nhập kho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tĩnh Gia theo phiếu nhập kho số NK2019/65 ngày 02/8/2019.

+ Giao lại 3,389 g tương ứng với 33 viên nén màu đỏ là ma túy loại Methamphetamine và 1,096g tương ứng với 03 viên nén màu vàng là ma túy loại MDMA là mẫu vật còn lại sau giám định, hiện đang được nhập kho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tĩnh Gia theo phiếu nhập kho số NK2019/65 ngày 02/8/2019 cho cơ quan điều tra công an huyện Tĩnh Gia tiếp tục điều tra và xử lý theo quy định.

- Án phí: Bị cáo Đặng Sử D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2019/HS-ST ngày 16/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:67/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tĩnh Gia (cũ) - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về