Bản án 67/2019/HS-ST ngày 13/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 67/2019/HS-ST NGÀY 13/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 68/2019/TLST-HS ngày 17/05/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2019/QĐXXST-HS ngày 31/05/2019 đối với bị cáo:

Trần Văn H, sinh năm 1989 tại Hà Nam; nơi cư trú: Xóm M, xã K, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn L và bà Lê Thị C; có vợ là Trần Thị D, sinh năm 1986 và 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2015; tiền án: Ngày 11/9/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xử phạt 12 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”; ngày 27/03/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xử phạt 24 tháng tù về tội: “Trốn khỏi nơi giam” và tổng hợp hình phạt tù với bản án số 59/2014/HSST ngày 11/9/2014 của Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam buộc bị cáo chấp hành chung hình phạt tù là 29 tháng 03 ngày; bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/05/2017; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ ngày 20/02/2019, tạm giam từ ngày 26/02/2019 đến nay; có mặt.

- Người làm chứng: Anh Phan Văn K, sinh năm 1987; địa chỉ: Xóm N, xã T, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 20/02/2019, Trần Văn H gặp bạn là đối tượng nghiện ma túy tên Quỳnh (H không biết rõ tên tuổi, địa chỉ) ở khu vực xã Thụy Lôi, Kim Bảng, khi Quỳnh rủ H đi mua ma túy để sử dụng thì H đồng ý. Sau đó Quỳnh điều khiển xe môtô (không rõ biển kiểm soát) chở H đi đến khu vực tổ 10, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam thì dừng xe lại bảo H xuống xe đứng đợi rồi điều khiển xe đi tiếp, một lát sau Quỳnh quay lại đưa cho H 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng nói:“Hàng đấy cầm lấy”. Biết đó là ma túy, H cầm đút vào túi quần đang mặc rồi cùng Quỳnh đi tìm nơi để sử dụng ma túy. Khi đi được một đoạn thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đang tuần tra phát hiện thấy có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra. H xuống xe còn Quỳnh lợi dụng lúc sơ hở phóng xe bỏ chạy thoát. Tại chỗ, H tự giác lấy giao nộp cho lực lượng Công an vỏ bao thuốc lá Thăng Long, khi kiểm tra bên trong thấy có 01 gói giấy bạc màu vàng chứa chất bột màu trắng dạng cục và H khai nhận đó là ma túy, cất giấu mục đích để sử dụng.

Vật chứng, tài sản thu giữ của Trần Văn H gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Tại bản Kết luận giám định số 35/PC09-MT ngày 24/02/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,153 gam, loại Heroine”.

Bản cáo trạng số 74/CT-VKS-PL ngày 16/05/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Trần Văn H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Trần Văn H, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt Trần Văn H từ 06 năm đến 07 năm tù.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với các chứng cứ của vụ án như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lý lịch tư pháp của bị cáo, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Trần Văn H là đối tượng có 02 tiền án, chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/05/2017 về tội: Trn khỏi nơi giam” do tái phạm. Khoảng 09 giờ 45 phút ngày 20/02/2019, tại tổ 10, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Trần Văn H bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam bắt giữ quả tang khi đang cất giấu trái phép 0,153 gam Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, với tình tiết định khung hình phạt “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có nhân thân xấu do có 02 tiền án và chưa được xóa án tích.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự pháp luật quy định.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ rất nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động cất giữ, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Vì vậy, cần có mức án thật nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện và nhân thân xấu của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo là người nghiện ma túy, mới chấp hành xong hình phạt tù, không có nghề nghiệp, thu nhập và tài sản riêng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung (như phạt tiền, tịch thu tài sản…) đối với bị cáo.

[6] Đối với người thanh niên tên Quỳnh đã cùng bị cáo đi mua ma túy và đưa cho bị cáo cất giấu, do Cơ quan điều tra không xác định được đặc điểm nhân thân, địa chỉ của người này nên chưa có cơ sở để xem xét, xử lý là có căn cứ.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ: Đối với toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long là vật cấm tàng trữ và không có giá trị sử dụng sẽ tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/02/2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01”, số 35/PC09-MT có chữ ký và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam và 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 20/05/2019.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Trần Văn H nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2019/HS-ST ngày 13/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:67/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về