Bản án 65/2019/HS-ST ngày 11/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ- TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 65/2019/HS-ST NGÀY 11/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 55/2019/HSST ngày 24 tháng 4 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2019/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2019, đối với các bị cáo:

1/ Nguyễn Văn V, sinh năm 1968; nơi ĐKNKTT, chỗ ở: tổ dân phố DN, phường CS, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn N1, sinh năm 1932 và bà: Lại Thị T1 (đã chết); vợ: Phạm Thị T2, sinh năm 1985 và có 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 21/10/2016 bị Công an phường Châu Sơn, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính, bằng hình thức phạt tiền về hành vi: “Sử dụng trái phép chất ma túy”; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/01/2019 đến nay; hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam. Có mặt tại phiên tòa.

2/ Nguyễn Văn N, sinh năm 1984; nơi ĐKNKTT, chỗ ở: thôn ĐN, xã TL, huyện TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn H2 (đã chết) và bà: Nghiêm Thị Kim D, sinh năm 1959; vợ: Nguyễn Thị H3, sinh năm 1989; con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/01/2019 đến nay; hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Hồng P, sinh năm 1987; trú tại: thôn ĐN, xã TL, huyện TL, tỉnh Hà Nam. Có mặt.

* Người làm chứng: Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1980; trú tại: Tổ 4, phường TT, thành phố PL, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ 30 phút ngày 28/01/2019, Nguyễn Văn V đang đứng ở khu vực cây xăng Phú Thịnh, thuộc thị trấn KK, huyện TL, tỉnh Hà Nam thì gặp Nguyễn Văn N điều khiển xe mô tô BKS 90B1-485.23 đi đến. Cả hai rủ nhau đi mua ma túy về sử dụng. N nói với V: “Em có ba trăm mua quả hàng về chơi” và lấy 300.000 đồng đưa cho V. V điều khiển xe mô tô chở N ngồi phía sau đi đến khu vực gần cây xăng xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam thì dừng xe lại. V bảo N đứng đợi rồi tiếp tục điều khiển xe mô tô đi đến khu vực ngã tư cầu Châu Sơn thuộc tổ dân phố Hồng Phú, phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam gặp một người đàn ông khoảng 30 tuổi, V hỏi: “Có để em ba trăm” (ý V hỏi người đàn ông có ma túy không bán cho 300.000đ), người đàn ông này hiểu ý là hỏi mua ma túy nên gật đầu. V lấy 300.000 đồng đưa cho người đàn ông và đứng đợi. Khoảng 5 phút sau, người đàn ông quay lại đưa cho V 01 gói giấy bạc màu vàng, V biết là ma túy nên cầm lấy và điều khiển xe mô tô quay lại gặp N nói “Lên xe đi”. V điều khiển xe mô tô chở N đến đoạn đường thuộc tổ 1, phường TT, thành phố PL, tỉnh Hà Nam thì dừng lại, V đưa cho N 01 gói giấy bạc màu vàng, N hiểu là ma túy, N chia làm 2 gói nhỏ bọc bằng giấy bạc màu vàng rồi đưa cho V 01 gói; V cầm lấy thì bị lực lượng công an phường Thanh Tuyền, thành phố Phủ Lý phát hiện bắt quả tang.

* Vật chứng, tài sản thu giữ gồm:

- Thu của Nguyễn Văn V: 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, vỏ nhựa màu xanh-đen đã cũ.

- Thu của Nguyễn Văn N: 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT02; 01 chiếc điện thoại di động có chữ VERTU, vỏ nhựa màu đen-vàng đã cũ; 01 xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, màu sơn đen - trắng, xe đã cũ, biển kiểm soát: 98B1-485.23.

Ngày 29/01/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn V tại tổ dân phố DN, phường CS, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn N tại thôn ĐN, xã TL, huyện TL, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không thu giữ được đồ vật, tài sản gì.

- Tại Bản kết luận giám định số 26/PC09-MT ngày 31/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận:

+ Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,127g (Không phảy một trăm hai mươi bảy gam) loại Heroine.

+ Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT02 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,117g (Không phảy một trăm mười bảy gam) loại Heroine.

Từ những nội dung trên, tại bản cáo trạng số 62/CT-VKSPL ngày 23/4/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 50 của Bộ luật Hình sự; đề nghị xử phạt: Nguyễn Văn V từ 24 đến 30 tháng tù, Nguyễn Văn N từ 15 đến 18 tháng tù, đều về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

+ Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine cùng bao gói; trả lại Nguyễn Văn V một điện thoại di động có chữ Masstel vỏ nhựa màu xanh đen; trả lại Nguyễn Văn N một điện thoại di động có chữ VERTU vỏ nhựa màu đen vàng; trả lại anh Nguyễn Hồng P một xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, màu sơn đen trắng (xe đã cũ), BKS 98B1-485.23.

- Các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Nguyễn Hồng P có ý kiến: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý có thu giữ một xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, màu sơn đen trắng (xe đã cũ), BKS 98B1-485.23 là tài sản thuộc quyền sở hữu của anh, anh cho Nguyễn Văn N mượn làm phương tiện đi lại, song không biết N sử dụng xe vào việc đi mua ma túy. Nay anh đề nghị được xin lại xe để sử dụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đánh giá về tội danh: Đối chiếu lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa với lời khai của các bị cáo trong giai đoạn điều tra, Hội đồng xét xử thấy phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định của cơ quan chuyên môn cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 20 phút ngày 28/01/2019, tại tổ 1, phường TT, thành phố PL, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Văn N đưa 300.000đ cho Nguyễn Văn V đi mua ma túy có khối lượng 0,244 gam, loại Heroine cất giữ trong người để cùng nhau sử dụng thì bị lực lượng Công an phường TT, thành phố PL phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của các bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với các bị cáo là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội.

[3] Đánh giá về hình phạt:

* Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo bằng mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra, nhằm cải tạo các bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung trong cộng đồng.

Về vai trò của từng bị cáo trong vụ án thì thấy: Nguyễn Văn N là người đưa tiền mua ma túy, Nguyễn Văn V là người trực tiếp đi mua ma túy, nên cả hai bị cáo giữ vai trò đồng phạm như nhau trong vụ án.

Khi lượng hình cũng cần cân nhắc đến các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo để áp dụng hình phạt cho phù hợp:

+ Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

+ Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật Hình sự.

+ Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Văn N có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu. Bị cáo Nguyễn Văn V có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Do vậy cần cân nhắc trong khi lượng hình.

Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo cũng như vai trò của từng bị cáo trong vụ án. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian vừa để giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành công dân có ích, vừa có tác dụng phòng ngừa chung trong cộng đồng.

* Về hình phạt bổ sung: Xét mục đích phạm tội của các bị cáo là tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[4] Xử lý vật chứng:

- Đối với toàn bộ số ma túy thu giữ của Nguyễn Văn V và Nguyễn Văn N hoàn trả sau giám định cùng bao gói là vật chứng của vụ án, cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 98B1-485.23 là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của anh Nguyễn Hồng P, anh P không biết việc N mượn xe để đi mua ma túy. Do vậy cần trả lại cho anh Nguyễn Hồng P.

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động có chữ Masstel, vỏ nhựa màu xanh- đen đã cũ của Nguyễn Văn V; 01 chiếc điện thoại di động có chữ VERTU, vỏ nhựa màu đen-vàng đã cũ của Nguyễn Văn N, là tài sản hợp pháp của V và N, không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo, nên cần trả lại cho các bị cáo, song giữ lại để đảo bảo thi hành án.

[5] Các tình tiết khác của vụ án: Về nguồn gốc số ma túy, Nguyễn Văn V khai mua của người đàn ông lái xe ôm khoảng 30 tuổi, V không quen biết người này. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với công an phường TC, thành phố PL để điều tra xác minh làm rõ nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của người đã bán ma túy cho V. Ngoài lời khai của V không có tài liệu chứng cứ nào khác. Do vậy không có căn cứ để giải quyết trong vụ án này.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38; Điều 50; Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106; 136; 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] Xử phạt:

- Nguyễn Văn V 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/01/2019.

- Nguyễn Văn N 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/01/2019.

[3] Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) phong bì đã niêm phong số 26/PC09-MT, mặt trước hai phong bì ghi mẫu vật hoàn trả QT01, QT02.

- Trả lại Nguyễn Văn V một điện thoại di động có chữ Masstel vỏ nhựa màu xanh đen, song giữ lại để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại Nguyễn Văn N một điện thoại di động có chữ VERTU vỏ nhựa màu đen vàng, song giữ lại để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại anh Nguyễn Hồng P một xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, màu sơn đen trắng (xe đã cũ), BKS 98B1-485.23.

(Tình trạng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 25/4/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý).

[4]/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn N mỗi bị cáo phải nộp: 200.000đ.

Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành bản án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2019/HS-ST ngày 11/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:65/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về