Bản án 63/2019/HS-ST ngày 07/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 63/2019/HS-ST NGÀY 07/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 07 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 66/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Văn Q, sinh năm 1991, tại Hà Nam; nơi cư trú: Thôn TH, xã TT, huyện TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn L, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1959; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/02/2019 đến nay; hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam. Có mặt.

* Người làm chứng: Anh Trần Nam Tr, sinh năm 1979; địa chỉ: Xóm 1, xã LC, thành phố PL, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ ngày 22/02/2019, Phạm Văn Q đi từ nhà đến Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Hà Nam để uống Methadone. Tại đây, Q gặp bạn nghiện mới quen tên Hưng khoảng 30 tuổi (không rõ nhân thân lai lịch), Hưng nói với Q: “Đưa tiền đây để anh đi lấy đồ về cho”. Q hiểu ý Hưng bảo đưa tiền để Hưng đi mua ma túy về sử dụng nên đồng ý và đưa 200.000đ cho Hưng. Hưng nói với Q: “Lên xe anh chở đi cùng” rồi điều khiển xe mô tô của mình chở Q đi mua ma túy. Khi đến đoạn đường 21A thuộc khu vực xóm 2, xã Liêm Chung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Hưng điều khiển xe rẽ vào một ngõ nhỏ rồi dừng lại bảo Q: “Em đứng đây đợi để anh đi lấy đồ”. Q hiểu ý nên xuống xe đứng đợi. Một lúc sau, Hưng quay lại đưa cho Q 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong vỏ bao thuốc lá có ma túy và bảo Q đứng đợi. Sau khi Hưng vừa đi khỏi thì Q bị tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an thành phố Phủ Lý phát hiện bắt quả tang. Lực lượng công an đã đưa Phạm Văn Q về trụ sở lập biên bản theo quy định của pháp luật.

Vt chứng, tài sản đã thu giữ: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột mầu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Wiko vỏ màu vàng.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Văn Q tại thôn TH, xã TT, huyện TL, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài sản gì.

Tại bản kết luận giám định số 36/PC09-MT ngày 26/02/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,144 gam, loại Heroine.

Tại bản cáo trạng số 72/CT-VKS-PL ngày 15 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Phạm Văn Q về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Phạm Văn Q theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến bổ sung hoặc thay đổi gì đối với nội dung vụ án. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Văn Q mức án từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định và một vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; trả lại Phạm Văn Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu Wiko vỏ màu vàng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cơ bản như bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo không tranh luận, không bào chữa và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đánh giá về tội danh: Ti phiên toà bị cáo Phạm Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp lời khai của người làm chứng, bản kết luận của cơ quan chuyên môn cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:

Khong 11 giờ 45 phút ngày 22/2/2019, tại khu vực xóm 2, xã Liêm Chung, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Phạm Văn Q đang cất giữ trái phép 0,144 gam ma túy, loại Heroin mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo Phạm Văn Q đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[3] Đánh giá về hình phạt:

* Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó không những gây ảnh hưởng đến sức khỏe của bị cáo mà còn xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn thành phố Phủ Lý, đồng thời là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội, tội phạm nguy hiểm khác gây bất bình sâu sắc trong quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý.

Khi lượng hình cần xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với bị cáo để áp dụng hình phạt cho phù hợp:

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu.

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên toà hôm nay và tại cơ quan điều tra bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, nên xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian vừa để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích, vừa có tác dụng phòng ngừa chung trong cộng đồng.

* Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, không có mục đích kiếm lời nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Xử lý vật chứng:

- Đối với toàn bộ số ma túy hoàn trả sau giám định và một vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng thu giữ của Phạm Văn Q cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Wiko vỏ màu vàng có số IMEI1: 352227031135968; IMEI2: 352227031635967 thu giữ của Phạm Văn Q không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho Phạm Văn Q.

[5] Đánh giá các tình tiết khác của vụ án: Về nguồn gốc số ma túy thu giữ của Phạm Văn Q, Q khai do người bạn nghiện tên là Hưng, khoảng 30 tuổi, không rõ nhân thân, lai lịch mua hộ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã áp dụng các biện pháp điều tra xác minh làm rõ nhưng chưa xác định được nhân thân lai lịch của người này, ngoài lời khai của Q không có tài liệu, chứng cứ nào khác. Do vậy không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c, khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

- Căn cứ Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình s.

- Căn cứ Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Q phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

[2] Xử phạt Phạm Văn Q 20 (hai mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/02/2019.

[3] Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong dán kín mặt trước ghi: Mẫu vật hoàn trả QT01 số 36/PC09-MT của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam. (Mặt sau phong bì có các chữ ký và ghi họ tên của Nguyễn Thị Lan Hương, Lưu Thị Ngọc Ánh, một chữ ký đóng dấu chức danh của trưởng phòng Trung tá Nguyễn Đại Hữu và đóng ba dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam) và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

- Trả lại cho Phạm Văn Q chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Wiko màu vàng có số IMEI1: 352227031135968; IMEI2: 352227031635967, song tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

(Tình trạng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 17/5/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý).

[4] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Phạm Văn Q phải nộp 200.000đ.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2019/HS-ST ngày 07/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:63/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về