Bản án 63/2017/HSST ngày 28/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 63/2017/HSST NGÀY 28/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 66/2017/HSST ngày 08 tháng 9 năm 2017 đối với bị cáo:

Huỳnh Minh Đ, sinh năm 1994 tại Cà Mau. Tên gọi khác: Cướp biển; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Không; chỗ ở: Khóm 4, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Biết viết tên; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Huỳnh Văn C và bà Trần Vân L; tiền sự: Không; tiền án: Không;bị cáo bị bắt ngày 22/7/2017 sau đó chuyển tạm giam cho đến nay. (Bị cáo có mặt).

Người bị hại: Phan Văn T, sinh năm 1969 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Khóm 7, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 ngày 21/7/2017, Huỳnh Minh Đ đi chơi tại khóm 7, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau tìm đò về nhà tại khóm 4, thị trấn S. Lúc đứng tìm đò, Đ phát hiện 01 cái quần kaki của anh Phan Văn T để phía sau ghe biển kiểm soát 92954 TS không có người quản lý. Đ lén lút đến lục soát lấy trộm số tiền2.515.000 đồng của anh Phan Văn T. Ngay lúc đó, anh T phát hiện giữ Đ lại rồi trình báo công an thị trấn S. Qua làm việc đã thu giữ số tiền 2.515.000 đồng trên người của Đ, Đ thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Hiện nay bị hại Phan Văn T đã nhận lại số tiền 2.515.000 đồng, không yêu cầu trách nhiệm dân sự.

Tang vật thu giữ: Ngày 21 tháng 7 năm 2017, Công an thị trấn S thu giữ trên người của Huỳnh Minh Đ số tiền 2.515.000 đồng, đã trao trả cho bị hại. Ngày 22 tháng 7 năm 2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện T thu giữ 01 nón kết màu đỏ hiệu BMW, 01 áo màu xanh lợt, 01 quần kaki màu nâu có chữ Newfashion và 71.000 đồng (tiền Việt Nam), hiện nay Chi Chi cục thi hành án dân sự huyện T đang quản lý.

Tại phiên tòa, bị cáo Đ đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Yêu cầu xin nhận lại 01 nón kết màu đỏ hiệu BMW, 01 áo màu xanh lợt, 01 quần kaki màu nâu có chữ Newfashion; đối với số tiền 71.000 đồng không yêu cầu nhận lại.

Bản cáo trạng số 68/KSĐT-KT ngày 08 tháng 9 năm 2017 của Viện Kiểm sátnhân dân huyện T truy tố bị cáo Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố và tranh luận: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Đ về tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm h, p khoản 1Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 06 tháng đến 12 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu, nên không xem xét.

Về tang vật áp dụng Điều 41, Điều 42 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Trả cho bị cáo Đương số tiền 71.000 đồng;

+ Tịch thu và tiêu hủy 01 nón kết màu đỏ hiệu BMW, 01 áo màu xanh lợt, 01 quần kaki màu nâu có chữ Newfashion của bị cáo Đương.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét nhận thấy như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đ khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 10 giờ 30 ngày 21/7/2017, bị cáo Đ trong lúc tìm đò về nhà tại khóm 4, thị trấn S thì phát hiện 01 cái quần kaki của anh Phan Văn T để phía sau ghe biển kiểm soát 92954 TS không có người quản lý, nên Đ lén lút đến lục soát lấy trộm số tiền 2.515.000 đồng của anh Phan Văn T. Trước trong và sau khi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đủ năng lực và đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của bị cáo gây ra.

Từ những lập luận, phân tích và đánh giá các chứng cứ nêu trên. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận bị cáo Huỳnh Minh Đ đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Đối với quan điểm của Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là phù hợp và có căn cứ, nên cần chấp nhận.

 [3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là ít nghiêm trọng, nhưng đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, bị cáo cũng biết được tài sản hợp pháp của người khác luôn được pháp luật bảo vệ, nhưng do bản chất lười lao động, thích ngồi không nhưng lại muốn hưởng thụ trên công sức của người khác, nên bị cáo sẵn sàng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của anh T. Do đó cần xử lý nghiêm đối với hành vi của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt cho gia đình và xã hội, ngoài ra còn đảm bảo công tác phòng chống tội phạm chung trong toàn xã hội.

Đối với hành vi của Huỳnh Minh Đ vào ngày 30/6/2017 trộm 01 điện thoại di động HTC của Nguyễn Văn K do tài sản bị chiếm đoạt trị giá 1.647.000 đồng, do không đủ định lượng nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện T xử lý hành chính là đúng.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt thể hiện ở việc bị cáo không có tiền án, tiền sự; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự là phù hợp.

Từ những lập luận, phân tích và đánh giá về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo nêu trên. Hội đồng xét xử xét thấy các điều luật Viện kiểm sát đề nghị áp dụng và việc xử phạt bị cáo Huỳnh Minh Đ mức án 06 tháng đến 12 tháng tù là phù hợp, nên cần chấp nhận.

 [4] Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [5] Về vật chứng và xử lý vật chứng áp dụng Điều 41, Điều 42 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

Xét thấy các đồ vật và tài sản thu giữ của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội, nên cần trả cho bị cáo Đ 01 nón kết màu đỏ hiệu BMW, 01 áo màu xanh lợt, 01 quần kaki màu nâu có chữ Newfashion và 71.000 đồng (tiền Việt Nam) là phù hợp;

 [6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo quy định tại Điều 98, Điều 99 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: bị cáo Huỳnh Minh Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Minh Đ: 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt bị cáo là ngày 22/7/2017.

2. Về vật chứng và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41, Điều 42 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

Trả cho bị cáo Đ 01 nón kết màu đỏ hiệu BMW, 01 áo màu xanh lợt, 01 quần kaki màu nâu có chữ Newfashion và 71.000 đồng (tiền Việt Nam).

Tất cả các tang vật trên hiện nay Chi cục thi hành án dân sự huyện T đang quản lý.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 98, Điều 99 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Huỳnh Minh Đ phải nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với người bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bịcưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2017/HSST ngày 28/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:63/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về