Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2017/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY ĐỨC, TỈNH ĐĂK NÔNG

BẢN ÁN 27/2017/HSST NGÀY 05/07/2017 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 05 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở UBND xã ĐăkBukSo, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2017/HSST  ngày  16  tháng  5  năm  2017,  Quyết  định  đưa  vụ  án  ra  xét  xử  số: 27/2017/HSST-QĐ ngày 22/6/2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H, sinh năm: 1990, tại Nghệ An; Nơi ĐKHKTT: Khối 4, phường Nghi Tân, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Bon SêRê I, xã ĐăkRu, huyện ĐăkR’Lấp, tỉnh Đăk Nông; Nghề nghiệp: Không ổn định; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Con ông: Nguyễn Văn H (sinh năm 1967) và bà Lê Thị H (sinh năm 1966); Bị cáo chưa có vợ, con; 

Tiền án: Có 02 tiền án, cụ thể như sau:

Ngày 28/5/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xử phạt 18 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 36/2009/HSST ngày 28/5/2009; Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 05/4/2010, nhưng chưa được xóa án tích.

Ngày 31/3/2011 bị Tòa án nhân dân thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An xử phạt 12 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” và 15 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành 27 tháng tù theo bản án số 16/2011/HSST ngày 31/3/2011, đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 19/12/2012 nhưng chưa được xóa án tích.

Nhân thân:

- Ngày 30/12/2005, bị Công an phường Nghi Tân, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản bằng hình thức “Cảnh cáo”; Đã được xóa.

- Ngày 09/8/2006, bị Uỷ ban nhân dân thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng trong thời hạn 24 tháng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong quyết định ngày 15/8/2008;

- Ngày 26/3/2015, bị Tòa án nhân dân huyện ĐăkR’Lấp, tỉnh Đăk Nông xử phạt 01 năm 9 tháng 15 ngày tù, về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 19/2015/HSST ngày 26/3/2015, bị cáo chưa chấp hành hình phạt tù; Bị cáo bị bắt, tạm giữ tạm giam từ ngày 08/3/2017 cho đến nay; Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông – có mặt tại phiên tòa.

Những người bị hại:

1. Ông Nguyễn Văn P, sinh năm: 1967; Địa chỉ: Thôn 2, xã Đăk Buk So, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Ông Phạm Văn T, sinh năm: 1968; Địa chỉ: Thôn 2, xã Đăk Buk So, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

3. Chị Phan Thị T, sinh năm: 1989; Địa chỉ: Thôn 2, xã Đăk Buk So, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

4. Anh Nguyễn Văn D, sinh năm: 1988; Địa chỉ: Thôn 2, xã Đăk Buk So, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông –Vắng mặt tại phiên tòa.

5. Anh Nguyễn Văn D1, sinh năm: 1970; Địa chỉ: Thôn 3, xã Đăk Buk So, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

6. Anh Phạm Văn N, sinh năm: 1990; Địa chỉ: Thôn 3, xã Đăk Buk So, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

7. Anh Nguyễn Xuân A, sinh năm: 1983; Địa chỉ: Thôn 3, xã Đăk Buk So, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

8. Ông Cao Đình N, sinh năm: 1965; Địa chỉ: Thôn 3, xã Đăk Buk So, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

9. Anh Đỗ Quang H, sinh năm: 1984; Địa chỉ: Thôn 3, xã Đăk Buk So, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

10. Ông Trịnh Xuân Đ, sinh năm: 1968; Địa chỉ: Thôn 4, xã Đăk Buk So, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

11. Chị Lê Thị H, sinh năm: 1972; Địa chỉ: Thôn 4, xã Đăk Buk So, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

12. Anh Đặng Hồng H, sinh năm: 1973; Địa chỉ: Thôn 4, xã Đăk Buk So, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

13. Chị Lâm Thị Vân A, sinh năm: 1987; Địa chỉ: Thôn 4, xã Đăk Buk So, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

14. Chị Trần Thị X, sinh năm: 1976; Trú tại: Thôn 5, xã Đăk Buk So, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

Những người làm chứng:

1. Anh Đinh Văn H, sinh năm: 1978; Địa chỉ: Thôn Quảng Thuận, xã Nghĩa Thắng, huyện ĐăkR’Lấp, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Đinh Việt H, sinh năm: 1991; Địa  chỉ: Thôn 7, xã Nhân Cơ, huyện ĐăkR’Lấp, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

3. Anh Nguyễn Bắc N, sinh năm: 1992; Địa chỉ: Thôn ĐăkR’Tăng, xã Quảng Tân, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

4. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm: 1988; Địa chỉ: Thôn ĐăkR’Tăng, xã Quảng Tân, huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

5. Anh Nguyễn Hoàng V, sinh năm: 1985; Địa chỉ: Thôn Quảng Thuận, xã Nghĩa Thắng, huyện ĐăkR’Lấp, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ ngày 27/01/2015 Nguyễn Bắc N rủ Nguyễn Thị H (sống với nhau như vợ chồng) đi trộm cắp chó để có tiền trang trải cuộc sống gia đình thì Nguyễn Thị H đồng ý. Do có mối quen biết từ trước nên Nguyễn Thị H gọi điện thoại cho Đinh Văn H (tên thường gọi là Tèo) hỏi hôm nay có đi hàng không (tức là đi trộm cắp chó) thì Đinh Văn H nói là có, nghe Đinh Văn H nói vậy thì Nguyễn Thị H kể lại cho Nguyễn Bắc N nghe là tối nay Đinh Văn H có đi trộm cắp chó. Nguyễn Bắc N nghe Nguyễn Thị H nói vậy nên Nguyễn Bắc N đã gọi điện thoại cho Đinh Văn H để xác nhận lại xem Đinh Văn H có đồng ý trộm cắp chó không và thỏa thuận trả cho Đinh Văn H với giá 40.000 đồng/1kg chó hơi. Đinh Văn H điện thoại cho Nguyễn Hoàng V để thuê xe ô tô tải biển kiểm soát 48C – 024.22 sử dụng làm phương tiện chở chó với giá 2 triệu đồng/1 chuyến (từ xã Nghĩa Thắng, huyện ĐắkR'Lấp chạy vào đến huyện Tuy Đức và ngược lại) thì Nguyễn Hoàng V đồng ý. Sau khi Đinh Văn H và Nguyễn Hoàng V thống nhất giá cả thuê xe thì Đinh Văn H gọi lại cho Nguyễn Bắc N thông qua số điện thoại di động của Nguyễn Thị H và dặn Nguyễn Bắc N liên hệ với Nguyễn Hoàng V để hướng dẫn Nguyễn Hoàng V điều khiển xe đến thôn ĐăkR’Tăng, xã Quảng Tân, huyện Tuy Đức để đón Nguyễn Bắc N (Chiếc xe ô tô tải biển kiểm soát 48C – 024.22 là của Công ty TNHH MTV TN TN theo giấy chứng nhận đăng ký xe số 000326 ngày 27/8/2014 do Công an tỉnh Đăk Nông cấp là Công ty do mẹ Nguyễn Hoàng V làm chủ) sau đó dùng để chở chó trộm cắp được. Nguyễn Bắc N dùng máy điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh để liên lạc và chuẩn bị 01 (một) cái lồng sắt, 01 (một) cái cân loại 100kg và 03 (ba) cái can màu trắng loại 10 lít chứa tổng cộng 16 lít xăng để phục vụ việc bắt trộm chó (tất cả đều là tài sản chung của Nguyễn Thị Hà và Nguyễn Bắc Nam). Khoảng 22 giờ cùng ngày, Nguyễn Hoàng V điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 48C – 024.22 đến đón Nguyễn Bắc N tại thôn ĐăkR’Tăng, xã Quảng Tân, huyện Tuy Đức rồi đi đến khu vực ngã ba gần chợ cũ huyện Tuy Đức (theo yêu cầu của Đinh Văn H đứng đợi để giao chó) đến khoảng 03 giờ sáng ngày 28/01/2015, Đinh Văn H cùng với Đinh Việt H , Nguyễn Văn H và Phạm Quốc D  đi trên hai chiếc xe mô tô hiệu Sirius (chưa rõ biển số) sử dụng súng bắn điện (tử chế) bắn trộm được 32 con chó với tổng trọng lượng 494kg (tại các khu vực thuộc địa bàn huyện Tuy Đức và giáp ranh huyện Đăk Song). Sau đó giao cho Nguyễn Bắc N toàn bộ số chó mà Đinh Văn H, Đinh Việt H, Nguyễn Văn H và Phạm Quốc D trộm cắp được rồi Nguyễn Bắc N buộc mõm chó cho vào lồng sắt và bao tải đưa lên thùng xe ô tô biển kiểm soát 48C – 024.22 chở về xã Quảng Tân, khi đi đến khu vực xã Quảng Tâm thì hành vi trộm cắp của Nguyễn Bắc N cùng đồng bọn bị lực lượng Cảnh sát giao thông Công an huyện Tuy Đức phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật và chuyển giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật. Nguyễn Văn H bỏ trốn đến ngày 07/3/2017 bị bắt theo Quyết định truy nã số 21 ngày 09 tháng 4 năm 2015 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của những người bị hại và lời khai những người làm chứng có trong hồ sơ vụ án, vật chứng thu giữ. Lời khai của những người bị hại, người làm chứng trong quá trình điều tra phù hợp với nội dung vụ án; Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng phù hợp với giá thị trường tại thời điểm định giá bị cáo không có ý kiến gì.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 60/KL – HĐĐGTS ngày 28/01/2015 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tuy Đức đã kết luận: 32 con chó lớn, nhỏ, màu đen, trắng, vàng, xám trong đó có 08 con chó đã chết, tổng trọng lượng 494kg với giá 55.000 đồng/1kg, trị giá quy thành tiền là 27.170.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số: 22/Ctr-VKS ngày 16/5/2017 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự.

Trong phần luận tội tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất của vụ án, chứng minh hành vi phạm tội cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo; giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Hoàn: từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Áp dụng Điều 51 – BLHS tổng hợp hình phạt với bản án số: 19/2015/HSST ngày 26/3/2015 của Tòa án nhân dân huyện ĐăkR’Lấp, tỉnh Đăk Nông.

Vật chứng của vụ án và trách nhiệm dân sự: Đã được giải quyết trong các vụ án trước nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

Phần tranh luận bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát. Ơ

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuy Đức, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người bị hại không có người nào có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng, của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị cáo Nguyễn Văn H có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển mọi hành vi của bản thân trong cuộc sống. Bị cáo cũng như pháp luật buộc bị cáo phải biết tài sản thuộc sở hữu, quản lý hợp pháp của người khác là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Song do ý thức coi thường pháp luật, mục đích tư lợi cá nhân nên vào khoảng 03 giờ ngày 28/01/2015. Tại địa bàn các xã Quảng Tâm, xã Đăk Buk So và xã Quảng Tân thuộc huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông và địa bàn huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông, lợi dụng sơ hở trong việc nuôi chó thả rông của Trịnh Xuân Đ, Nguyễn Văn Ph, Đặng Hồng H, Nguyễn Xuân A, Phạm Văn T, Cao Đình N, Lâm Thị Vân A, Đỗ Quang H, Trần Thị X, Phan Thị T, Nguyễn Văn D, Đồng Hữu T và một số người dân. Bị cáo cùng đồng phạm đã có hành vi trộm cắp 32 con chó lớn, nhỏ, màu đen, trắng, vàng, xám tổng trọng lượng 494kg, trị giá quy thành tiền tại thời điểm chiếm đoạt là 27.170.000 đồng. Bản thân bị cáo ngày 28/5/2009 bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích đến ngày 31/3/2011 lại bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm” chưa được xóa án tích nay lại phạm tội mới do vậy bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Vì vậy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Văn H phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự, cụ thể:

“1. Người nào trộm căp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

c) Tái phạm nguy hiểm;

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Do vậy, HĐXX xét thấy để đảm bảo việc giáo dục bị cáo có ý thức chấp hành nghiêm pháp luật cũng như răn đe phòng ngừa chung, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, mức độ mà bị cáo gây ra, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội. Song tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, nên cần áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật Nhà nước ta. Ngày 26/3/2015, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện ĐăkR’Lấp, tỉnh Đăk Nông xử phạt 01 năm 9 tháng 15 ngày tù, về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 19/2015/HSST ngày 26/3/2015, bị cáo chưa chấp hành hình phạt tù. Do vậy, cần áp dụng điều 51 - BLHS để tổng hợp hình phạt đối với bị cáo.

Đối với hành vi của Đinh Việt H, Nguyễn Bắc N, Nguyễn Hoàng V và Nguyễn Thị H cùng Đinh Văn H, Phạm Quốc D trộm cắp tài sản đã được xét xử trong các vụ án trước nên không đề cập.

Đối với chiếc xe mô tô (không có biển số) nhãn hiệu Sirius Yamaha mà Đinh Văn H làm phương tiện để chở Nguyễn Văn H đi trộm cắp chó. Quá trình điều tra Đinh Văn H khai nhận sau khi gây án Đinh Văn H đã bán lại chiếc xe trên cho đối tượng tên H (không rõ nhân thân lai lịch) ở tại thị trấn Kiến Đức, huyện Đăk R’Lấp, tỉnh Đăk Nông. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức đã xác minh đối tượng tên Hoài nhưng không có kết quả nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

Vật chứng của vụ án và về phần bồi thường dân sự: Đã được giải quyết trong vụ án trước nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.  Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 02 năm 06 tháng tù. Áp dụng Điều 51 của Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt chung cho bản án số 19/2015/HSST ngày 26/3/2015 của Tòa án nhân dân huyện ĐăkR’Lấp, tỉnh Đăk Nông xử phạt bị cáo 01 năm 9 tháng 15 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải chấp hành hình phạt là 04 năm 03 tháng 15 ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/3/2017.

2.  Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Báo cho những người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án tại chính quyền địa phương nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2934
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 27/2017/HSST

Số hiệu:27/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Đức - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:05/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về