Bản án 62/2019/HSST ngày 09/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH G

BẢN ÁN 62/2019/HSST NGÀY 09/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 09 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 77/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 92/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 40/2019/HSST-QĐ ngày 18 tháng 6 năm 2019, đối với bị cáo:

NGUYỄN ĐÌNH T , sinh năm 1969 tại Đăk Lăk; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 11, phường Tây Sơn, thành phố P, tỉnh G; nghề nghiệp: Thợ điện; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình Nha và bà Trảo Thị Được (đều đã chết); bị cáo có vợ là Đặng Thị Hường (đã ly hôn) và có 01 người con, sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 28/01/2019 cho đến nay. Có mặt.

Người chứng kiến: Ông Hồ X , sinh năm 1971; địa chỉ: Tổ 06, phường Hoa Lư, thành phố P, tỉnh G. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Trên cơ sở kết quả điều tra, xác định được như sau:

Vào tối ngày 07/01/2019, khi Nguyễn Đình T đang ngồi trên xe Taxi hãng xe Mai Linh (hiện chưa xác định được biển số và người điều khiển), Tân hỏi người lái xe có biết chỗ nào để mua ma túy không thì người lái xe nói và chở Tân đến bến xe Đức Long, thành phố P, tỉnh G. Khi đến nơi, người này chỉ cho Tân 01 người thanh niên (hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đứng ở cổng bến xe, là người có bán ma túy. Tân đến mua của người thanh niên này 01 viên thuốc lắc với giá 300.000 đồng rồi cất vào trong túi quần. Sau đó, Tân nói người tài xế taxi chở Tân đến quán vỉa hè trước Bưu điện tỉnh G để nhậu cùng bạn tên Quốc và một số người bạn của Quốc (không rõ nhân thân, lai lịch). Đến khoảng 24 giờ ngày 07/01/2019, do Tân đã say nên có 01 người trong nhóm bạn của Quốc (không rõ nhân thân, lai lịch) chở Tân đến quán Home Stay Sala tại số 93 đường Tạ Quang Bửu, Tổ 6, phường Hoa Lư, thành phố P, tỉnh G, để hát karaoke. Đến 02 giờ 50 phút ngày 08/01/2019, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố P phối hợp với Công an phường Hoa Lư tiến hành kiểm tra hành chính tại quán Home Stay Sala thì phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Đình T ân đang tàng trữ 01 viên nén hình tròn, màu xanh. Tân khai nhận là ma túy loại thuốc lắc và Tân tàng trữ với mục đích để sử dụng.

Bị cáo Nguyễn Đình T ân đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

2. Các vấn đề khác:

Qua trưng cầu giám định, tại Kết luận giám định số 183/KLGĐ ngày 24/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh G, kết luận:“01 viên nén hình tròn màu xanh trong bì thư niêm phong gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng 0,3216 gam”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận nêu trên.

3. Cáo trạng của Viện kiểm sát:

Bản cáo trạng số: 81/CT-VKS ngày 16/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh G đã truy tố bị cáo Nguyễn Đình T ân về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Đình T và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình sự:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T ân với mức án từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi chấp hành án.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tch thu và tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 183/PC09 ngày 24/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh G.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án: Bị cáo thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận vì việc làm của mình, kính mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P, tỉnh G; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh G trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc có khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo:

Xét thấy lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Nguyễn Đình T tội như sau:

Lúc 02 giờ 50 phút ngày 08/01/2019, tại khách sạn Sala (còn gọi là Homestay Sala) ở 93 Tạ Quang Bửu, tổ 6, phường Hoa Lư, thành phố P, tỉnh G, khi Nguyễn Đình T đang cất giấu 0,3216 gam chất ma túy loại MDMA để sử dụng, thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P phát hiện, bắt quả tang.

Tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái pháp chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)…;

b)…;

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamin, Amphetamin, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam;

Ma tuý là chất độc, có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, khi vào cơ thể con người có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và tâm sinh lý của con người, làm hạn chế hoạt động của não bộ và gây ức chế hệ thần kinh. Sự nghiện ngập là biểu hiện của trạng thái ngộ độc mãn tính do chất ma tuý gây ra, làm tổn thương cho bản thân. Ma tuý gây tác hại về nhiều mặt trong đời sống, xã hội. Sử dụng ma tuý làm suy thoái nhân cách, phẩm giá con người, gây xói mòn đạo lý, kinh tế, xã hội. Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm, không chỉ xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý mà còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự tại địa phương.

Bị cáo Nguyễn Đình T là người đã trưởng thành, lẽ ra bị cáo phải nhận thức được tác hại và hậu quả của việc sử dụng ma túy để tránh xa mà tập trung vào việc làm ăn, lao động chân chính để trở thành công dân có ích cho xã hội. Nhưng vì để thỏa mãn nhu cầu của bản thân và bị cáo đã mua và cất giấu 0,3126 gam chất ma túy loại MDMA với mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh G đã truy tố là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhằm giáo dục bị cáo cải tạo bản thân tiến bộ là cần thiết.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là bị cáo có nhân thân tốt; Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[4] Về vật chứng vụ án: Đi với 01 phong bì niêm phong số 183/PC09 ngày 24/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh G. Xét đây là tang vật của vụ án nên tịch thu tiêu hủy.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo mua ma túy về sử dụng không có thu lợi nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về các vấn đề khác: Đi với đối tượng nam thanh niên lái xe taxi là người mà bị cáo Nguyễn Đình T khai đã chỉ chỗ cho Tân mua ma túy và đối tượng đã bán ma túy cho Tân tại khu vực bến xe Đức Long, thành phố P. Do bị cáo Tân không biết rõ về nhân thân, lai lịch của các đối tượng trên nên chưa đủ căn cứ để điều tra, xử lý. Hiện Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh, khi nào xác định được đối tượng trên sẽ xem xét và xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đình T ân phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, 50; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Đình Tân.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

3. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015, sử đổi bổ sung năm 2017;

Xử: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong số 183/PC09 ngày 24/01/2019 có đóng dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh G.

(Tất cả theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 27/5/2019 giữa Công an thành phố P và Chi cục thi hành án dân sự thành phố P,tỉnh G).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Đình T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các Điều 331 và 333 của Bộ luật tố Tụng hình sự năm 2015;

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh G xét xử phúc thẩm.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/HSST ngày 09/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:62/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về