Bản án 59/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ AN NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 59/2020/HS-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 59/2020/TLST- HS ngày 27 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Trần Văn Th (tên gọi khác: B), sinh năm 1999 tại huyện T, tỉnh Bình Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và trú tại: Khối P, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn A (đã chết) và Lê Thị Ph, sinh năm 1955; có vợ Đoàn Thị Hồng Tr, sinh năm 1997, con: 02 người, lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2017. Bị cáo bị bắt phạm tội quả tang, tạm giữ từ ngày 23/5/2020 và chuyển tạm giam cho đến nay. Bị cáo có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Đoàn Thị Hồng Tr, sinh năm 1997; địa chỉ: Khối P, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bình Định, có mặt.

- Người làm chứng:

1/ Anh Lê Đức M, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn T, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định, vắng mặt.

2/ Ông Phan Châu T, sinh năm 1966; địa chỉ: Thôn T, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 15 giờ 30 phút ngày 23/5/2020, bị cáo Trần Văn Th điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 77F1-062.00 (Th mua của chị Từ Thị Diễm L, sinh năm 1992, ở thôn N, xã N, thị xã A, nhưng chưa thực hiện sang tên) đi từ nhà đến thành phố Q chơi. Th ngồi uống nước tại quán nước gần tượng đài Quang Trung, thành phố Q sau đó nhờ một người thanh niên tên Khiêm (chưa xác định được lai lịch) mua giúp 5.000.000 đồng ma túy: “thuốc lắc” và “ke”, gồm 02 bì nilon, một bì bên trong có chứa các viên nén và bì còn lại chứa các hạt tinh thể không màu. Th cất 02 bì nilon vào túi quần rồi điều khiển xe về nhà. Khi Th đi đến thôn Thọ Lộc 1, xã Nhơn Thọ, thị xã An Nhơn thì bị Công an thị xã An Nhơn kiểm tra, phát hiện trong túi quần trước bên phải của Th có 02 bì nilon, trong đó 01 bì có kích thước (5x8,5)cm bên trong có chứa 04 viên nén hình vuông, màu xanh da trời và 03 viên nén hình đầu lâu, màu tím; 01 bì có kích thước (4x6)cm bên trong chứa các hạt tinh thể không màu, tất cả nghi là ma túy. Công an thị xã An Nhơn tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ tang vật.

Kết luận giám định số 123/PC09 ngày 24/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định kết luận:

- 04 viên nén hình vuông, màu xanh da trời đều là ma túy, có tổng khối lượng 1,6198 gam, loại MDMA.

- 03 viên nén hình đầu lâu, màu tím đều là ma túy, có tổng khối lượng 0,9785 gam, loại MDMA.

- Các hạt tinh thể không màu bên trong bì nilon ghi thu của Trần Văn Th là ma túy, có khối lượng 1,1773 gam, loại Ketamine.

Tại bản Cáo trạng số 50/CT-VKSAN ngày 26 tháng 8 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã An Nhơn đã truy tố bị cáo Trần Văn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã An Nhơn vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn Th từ 18(mười tám) đến 24(hai mươi bốn) tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên tịch thu, tiêu hủy 01 bì thư dán kín có đóng dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định, bên trong có chứa vỏ bao bì đựng mẫu vật và khối lượng chất ma túy còn lại sau giám định.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với nội dung bản cáo trạng, tỏ ra ăn hăn hối cải về hành vi phạm tội. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên và tại lời nói sau cùng, bị cáo Th xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm về với gia đình, chăm sóc vợ con và báo hiếu mẹ già.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã An Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định đó. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn Th khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 23/5/2020, bị cáo điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 77F1-062.00 từ nhà ở thị trấn P, huyện T đến thành phố Q nhờ một người đàn ông tên Khiêm mua giúp 5.000.000 đồng ma túy, trong đó gồm 04 viên nén hình vuông, màu xanh da trời; 03 viên nén hình đầu lâu, màu tím và các hạt tinh thể không màu. Bị cáo cất giấu số ma túy vừa mua trong túi quần rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Trên đường đi, bị cáo bị Công an thị xã An Nhơn kiểm tra, phát hiện số ma túy giấu trong túi quần, nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật.

[3] Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa với lời khai trong quá trình điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ cùng toàn bộ tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án hoàn toàn phù hợp. Tại kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định xác định: 07 viên nén có khối lượng 2,5983gam là chất ma túy loại MDMA; các hạt tinh thể không màu có khối lượng 1,1773gam, là chất ma túy loại Ketamine. Khối lượng các chất ma túy bị cáo tàng trữ đều đủ định lượng quy đinh tại các điểm c, g khoản 1 Điều 249 và có mức khởi điểm dưới mức tối thiểu đối với từng chất ma túy quy định tại khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4] Theo khoản 2 Điều 5 của Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính Phủ, quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, xác định tổng khối lượng các chất ma túy bị cáo tàng trữ, cụ thể: tỷ lệ phần trăm về khối lượng của MDMA là 51,966% (2,5983gam so với 05gam) và tỷ lệ phần trăm về khối lượng của Ketamine là 5,886% (1,1773gam so với 20gam). Tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng của các chất ma túy bị cáo tàng trữ là 57,852% (51,966% + 5,886%= 57,852%). Bị cáo xác định, bản thân tàng trữ chất ma túy nhằm mục đích sử dung. Do đó, hành vi của bị cáo Trần Văn Th đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung “Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[5] Bị cáo là công dân đã trưởng thành, đủ nhận thức để biết ma túy là chất gây nghiện, hướng thần. Nghiện ma túy là tệ nạn xã hội và cũng là nguồn phát sinh các tệ nạn xã hội khác như trộm cắp, giết người,…, nên Nhà nước có chính sách quản lý độc quyền đối với ma túy và quy định những chế tài nghiêm khắc để xử lý những trường hợp vi phạm. Nhưng vì để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân, bị cáo đã bất chấp những quy định của pháp luật, tàng trữ ma túy để sử dụng.

[6] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước đối với chất ma tuý mà còn gây mất trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời cũng để răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[7] Xét bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bản thân là lao động chính trong gia đình, nuôi 02 con còn dưới 18 tuổi, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự điểm s khoản 1, khoản Điều 51 của Bộ luật Hình sự, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: 1,2226 gam mẫu A1 đến A4; 0,6481 gam mẫu A5 đến A7 và 0,8832 gam mẫu A8 là chất ma túy còn lại sau giám định (đựng trong bì thư dán kín có đóng dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định), là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, cấm tàng trữ lưu hành, nên áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch, tiêu hủy.

[9] Về xe mô tô biển kiểm soát 77F1-062.00, là tài sản hợp pháp của bị cáo Th, Cơ quan cánh sát điều tra Công an thị xã An Nhơn đã xử lý trả lại cho vợ bị cáo là chị Đoàn Thị Hồng Tr nhận xong, nên miễn xét.

[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, buộc bị cáo phải chịu 200.000đ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Văn Th phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Trần Văn Th 15 (mười lăm) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 23/5/2020.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 của Bộ luật Hình sự, tuyên tịch thu, tiêu hủy: 01 bì thư dán kín có đóng dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định, bên ngoài có ghi: CÔNG AN TỈNH BÌNH ĐỊNH số: 123/PC 09 - Hoàn lại đối tượng giám định gồm: Vỏ, bao bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định; - 1,2226 gam mẫu A1 đến A4; 0,6481 gam mẫu A5 đến A7 và 0,8832 gam mẫu A8 còn lại sau giám định.

- Về án phí hình sự thẩm: Buộc bị cáo Th phải chịu 200.000đ - Quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Tr có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:59/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã An Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về