Bản án 59/2019/HSST ngày 20/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DUY TIÊN - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 59/2019/HSST NGÀY 20/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 54/2019/HSST ngày 29 tháng 8 năm 2019, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2019 đối với:

* Bị cáo Kiều Văn N, sinh năm 1979; tên gọi khác: Không; nơi cư trú: Thôn B, xã Minh Đ, huyện Ứng H, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Kiều S (đã chết) và bà Đỗ Thị L, sinh năm 1940; Vợ: Nguyễn Thị Thu H; bị cáo có 02 con: Lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 28/7/2019, đến ngày 03/8/2019 chuyển tạm giam; hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Duy Tiên; có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Văn Th, sinh năm 1964;

Đa chỉ: Thôn Hoàng H, xã Hoàng Đ, huyện Duy T, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

* Người chứng kiến: Anh Đỗ Đình Tr, sinh năm 1990 (vắng mặt); ông Đặng Văn M, sinh năm 1965( vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 09 giờ 30 phút ngày 28/7/2019 Kiều Văn N mượn xe mô tô BKS: 90H3-7924 của ông Lê Văn Th - SN 1964, trú tại: Thôn Hoàng H, xã Hoàng Đ, huyện Duy T, tỉnh Hà Nam để đi mua đồ dùng lao động. Khi đi đến khu vực gầm cầu vượt Đồng Văn, N gặp bạn nghiện là D (N không biết họ, tên đệm, tuổi, địa chỉ cụ thể của D), D bảo N đi mua ma túy về cùng sử dụng. N đồng ý, D đưa cho N 300.000 đồng gồm 03 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng. N cầm tiền D đưa rồi một mình điều khiển xe mô tô BKS: 90H3-7924 đi đến khu vực ga Tía thuộc huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội mua của một người đàn ông không quen biết 03 gói ma túy được bọc bằng giấy màu trắng có dòng kẻ với giá 300.000 đồng. N cầm số ma túy trên cất vào túi áo ngực phía trước bên trái đang mặc rồi quay trở lại thị trấn Đồng Văn để gặp D. Khi đi đến khu vực đường QL1A thuộc thôn Ninh Lão, xã Duy Minh, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam thì bị tổ công tác Công an huyện Duy Tiên phối hợp với Công an xã Duy Minh kiểm tra, thu giữ 03 gói ma túy N đang cất giấu trong người cùng các vật chứng có liên quan.

Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang gồm: Thu tại túi áo ngực phía trước bên trái Kiều Văn N đang mặc 01 gói giấy màu trắng bên trong có 03 gói giấy nhỏ màu trắng (bên trong các gói giấy đều chứa chất bột màu trắng đục) được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01. Thu tại vị trí bắt giữ Kiều Văn N 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, kiểu Dream, BKS: 90H3-7924. Thu tại túi quần phía trước bên phải Kiều Văn N đang mặc 01 căn cước công dân mang tên Kiều Văn N. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Kiều Văn N, cơ quan CSĐT - Công an huyện Duy Tiên không thu giữ gì.

Tại Kết luận giám định số 146/PC09-MT ngày 30/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: Mẫu bột màu trắng đục dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,173g, loại Heroine.

Đi với chiếc xe mô tô BKS: 90H3-7924 thuộc sở hữu hợp pháp của ông Lê Văn Th, ông Th không biết N mượn xe vào việc đi mua ma túy nên cơ quan CSĐT Công an huyện Duy Tiên đã trả lại cho ông Th là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Quá trình điều tra, Kiều Văn N đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 56/CT-VKS ngày 27/8/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Duy Tiên truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c kho ản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Kiều Văn N từ 12( Mười hai) đến 18( Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/7/2019. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo, ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đưa ra quan điểm về xử lý vật chứng và tuyên án phí đối với bị cáo.

Trong phần tranh luận và nói lời sau cùng: Bị cáo chỉ xin giảm nhẹ hình phạt và không tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, của Điều tra viên và Kiểm sát viên thấy rằng: Việc xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ chứng minh tội phạm, ban hành các văn bản tố tụng đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và của các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp,

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người chứng kiến; biên bản bắt giữ người phạm quả tang, vật chứng thu giữ; kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có đủ cơ sở kết luận:

Hi 11 giờ 00 phút ngày 28/7/2019 tại đường Quốc lộ 1A thuộc thôn Ninh Lão, xã Duy Minh, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, tổ công tác của Công an huyện Duy Tiên phối hợp với công an xã Duy Minh, huyện Duy Tiên phát hiện bắt quả tang Kiều Văn N đang tàng trữ trái phép 0,173g Heroine để sử dụng.

Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng xấu trật tự trị an tại địa phương, hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, hành vi phạm tội của bị cáo là lần đầu, bố đẻ bị cáo là người có công với cách mạng, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn đang phải có trách nhiệm chăm sóc mẹ già, con nhỏ nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ nhận định trên, HĐXX nhận thấy bị cáo là người nghiện ma túy, chỉ vì để thỏa mãn cơn nghiện của mình bị cáo đã cầm tiền của người khác để đi mua hộ ma túy về cùng sử dụng nên cần phải ấn định mức hình phạt nghiêm khắc là hình phạt tù có thời hạn, đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4]Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định , hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[5]Về nguồn gốc ma túy: Kiều Văn N khai mua ma tuý của một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ ở khu vực huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội nên Cơ quan cảnh sát điều tra không có căn cứ xác minh để làm rõ nguồn gốc số ma túy đó cũng như người đã bán ma túy cho N.

[6] Đối với người đàn ông tên D đã đưa tiền cho N đi mua ma túy: Do N không biết họ, tên đệm, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này nên không có cơ sở xác minh, làm rõ để xử lý.

[7] Về vật chứng vụ án: Đi với 01 chiếc phong bì niêm phong có số 146/PC09-MT có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam; xác định đây là vật chứng cấm lưu hành liên quan đến vụ án nên HĐXX cần tịch thu cho tiêu hủy. Đối với 01 thẻ căn cước công dân có số 001079016680 mang tên Kiều Văn N xét trả lại cho bị cáo.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Từ nhận định trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố: Bị cáo Kiều Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Kiều Văn N 12( Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/7/2019 2. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu hủy: 01 chiếc phong bì niêm phong có số 146/PC09-MT có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.

Trả lại cho bị cáo Kiều Văn N: 01 thẻ căn cước công dân có số 001079016680 mang tên Kiều Văn N.

(Đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận giữa Công an huyện Duy Tiên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Duy Tiên ngày 28/8/2019).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, bị cáo Kiều Văn N phải nộp: 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2019/HSST ngày 20/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:59/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Duy Tiên - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về