Bản án 57/2020/HS-ST ngày 13/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 57/2020/HS-ST NGÀY 13/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:

36/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 139/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Doãn H, sinh ngày 25 tháng 11 năm 197X tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT: Đường T, phường T1, quận L, thành phố Hải Phòng; chỗ ở hiện nay: Đường L, phường G, quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Doãn H và bà Nguyễn Thị C (Nguyễn Thị H) đã chết; bị cáo có vợ Vũ Thị Kim Hoa và 03 con; tiền sự: Không; tiền án: Bản án số 22 ngày 11/3/2014, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xử phạt 18 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”; nhân thân: Bản án số 361 ngày 06/12/2001, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 09 tháng tháng tù nhưng cho hưởng án treo 02 năm thử thách về tội “Che dấu tội phạm” (đã được xóa án); bị bắt, tạm giữ ngày 16/12/2019, tạm giam ngày 18/12/2019; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 15 giờ 25 phút ngày 16/12/2019 tại trước cửa nhà số 201 Hai Bà Trưng, quận Lê Chân, Hải Phòng, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Hải Phòng bắt quả tang Phạm Doãn H có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy. Quá trình kiểm tra, thu giữ trong túi áo khoác phía trong bên trái của H đang mặc 02 túi nilon màu tắng kích thước 3x3cm đều chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy. Ngoài ra còn thu giữ của H: 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 15B2-077.19, 03 điện thoại đã qua sử dụng và số tiền 1.600.000 đồng. Sau đó cơ quan công an đã đưa H cùng vật chứng thu giữ được về trụ sở lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Kết luận giám định số 613/KLGĐ (D6) ngày 18/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: Tinh thể màu trắng trong 02 gói nilon thu giữ của H là ma túy, có khối lượng 0,6671 gam, là loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra Phạm Doãn H khai nhận: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 16/12/2019, H đi xe máy một mình vào khu vực đường tàu Trần Nguyên Hãn, Lê Chân, Hải Phòng gặp một người đàn ông không quen biết hỏi mua 500.000 đồng tiền ma túy đá để sử dụng. H đưa tiền cho người đàn ông này rồi nhận 02 gói ma túy. Sau đó, H cất 02 gói ma túy vào túi áo khoác phía trong bên trái và đi xe máy về khu vực trước cửa nhà số 201 Hai Bà Trưng, phường Cát Dài, quận Lê Chân, Hải Phòng thì bị cơ quan công an đến kiểm tra, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên.

Về vật chứng: 01 phong bì niêm phong đựng lượng ma túy cùng vỏ bao bì còn lại sau giám định số 613/2019/PC09; 01 điện thoại Nokia màu xanh; 01 điện thoại Nokia màu đen; 01 điện thoại Nokia màu xanh đen và 1.600.000 đồng; 01 xe mô tô biển kiểm soát 15B2-07719 đã trả lại cho chủ sở hữu chị Vũ Thị Kim Hoa (vợ H).

Tại bản Cáo trạng số 59/CT-VKS ngày 18/3/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Phạm Doãn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Phạm Doãn H khai nhận hành vi đã thực hiện phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên tại phiên toà, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Phạm Doãn H với mức án từ 24 đến 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong đựng lượng ma túy cùng vỏ bao bì còn lại sau giám định số 613/2019/PC09. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Nokia màu xanh; 01 điện thoại Nokia màu đen; 01 điện thoại Nokia màu xanh đen và 1.600.000 đồng nhưng tiếp tục tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

- Về tội danh:

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, nội dung bản cáo trạng và các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Phạm Doãn H đã có hành vi cất giữ bất hợp pháp 0,6671 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng. Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma tuý, xâm phạm trật tự trị an xã hội, làm phát sinh nhiều loại tội phạm hình sự khác. Vì vậy cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe phòng ngừa tội phạm.

- Về tình tiết tăng nặng:

[5] Bị cáo có 02 tiền án: Án số 361 ngày 06/12/2001 đã được xóa án, án số 22 ngày 11/3/2014 chưa được xóa án nên phạm tội lần này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. - Về hình phạt bổ sung:

[6] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không có tài sản và thu nhập nên không cần thiết bắt bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Về việc xử lý vật chứng:

[7] Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong đựng lượng ma túy cùng vỏ bao bì còn lại sau giám định số 613/2019/PC09.

[8] Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Nokia màu xanh; 01 điện thoại Nokia màu đen; 01 điện thoại Nokia màu xanh đen và 1.600.000 đồng vì xét thấy không phải là tiền, công cụ, phương tiện phạm tội nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[9] 01 xe mô tô biển kiểm soát 15B2-07719 thu giữ của H, qua xác minh chủ sở hữu là của chị Vũ Thị Kim Hoa cho H mượn nhưng không biết H mượn xe để đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho chị Vũ Thị Kim Hoa vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí:

[10] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án:

[11] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[12] Đối với người người đàn ông bán ma túy cho H hiện chưa xác minh được căn cước lai lịch, cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phạm Doãn H 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 16/12/2019.

- Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong đựng lượng ma túy cùng vỏ bao bì còn lại sau giám định số 613/2019/PC09.

+ Trả lại cho bị cáo Phạm Doãn H 01 điện thoại Nokia màu xanh số IMEI 357174/06/678279/0; 01 điện thoại Nokia màu đen số IMEI 359580/05/570339/9; 01 điện thoại Nokia màu xanh đen số IMEI 351550/04/473013/2 và 1.600.000 (một triệu sáu trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tiền số 0004541 và biên bản giao, nhận tài sản, vật chứng ngày 19/3/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo Phạm Doãn H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Phạm Doãn H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 57/2020/HS-ST ngày 13/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:57/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về