Bản án 56/2019/HSST ngày 10/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU

BẢN ÁN 56/2019/HSST NGÀY 10/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 47/2019/HSST ngày 11 tháng 3 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2019/QĐXXST- HS ngày 27 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Văn N, sinh ngày 24/9/2000 tại tỉnh B; HKTT: khu phố 1, phường Hắc Dịch, thị xã P, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Châu Ro; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: 6/12; Nghề nghiệp: không; Cha: Phạm Văn M (Dương Văn M), sinh năm: 1975; Mẹ: Trần Thị Hồng P, sinh năm: 1978.Tiền sự: không.Tiền án: Ngày 17/9/2018 Toà án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh BR - VT xử phạt 9 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng kể từ ngày tuyên án. Bị bắt ngày 28 tháng 11 năm 2018, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an TP Vũng Tàu. (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: anh Lê Xuân T, sinh năm: 1996 (vắng mặt)

Trú tại: tổ 20, số nhà 241, thôn Suối Nghệ, xã S, huyện C, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 15h ngày 28/11/2018, tại hẻm 74 đường Thắng Nhì, phường Thắng Nhì, TP Vũng Tàu, Công an phường Thắng Nhì, TP Vũng Tàu kiểm tra, bắt quả tang Phạm Văn N đang tàng trữ: 01 gói nylon, bên trong chứa chất bột màu trắng (N khai là Heroin), đồng thời Công an phường Thắng Nhì thu giữ của Nhật: 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu đen và 01 xe mô tô không rõ hiệu, biển số 60 Z2- 5447, có số khung: RLCS5C6107Y077414, số máy: 5C61077414.

Quá trình điều tra, Phạm Văn N khai nhận: Ngày 17/9/2018, N bị Tòa án nhân dân huyện Châu Đức tỉnh BR- VT xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng, về tội: “ Trộm cắp tài sản”. N sử dụng Heroin khoảng 01 tháng nay. Khoảng 14h30’ ngày 28/11/2018, N điều khiển xe mô tô biển số 60 Z2- 5447 đến hẻm 74 đường Thắng Nhì, phường Thắng Nhì, TP Vũng Tàu, gặp và mua 01 gói Heroin của người đàn ông, không rõ lai lịch, bán với giá 500.000đ để sử dụng, khi quay xe về thì bị Công an phường Thắng Nhì TP Vũng Tàu kiểm tra bắt quả tang.

Lời khai của Phạm Văn N phù hợp chứng cứ thu thập được.

Tại Bản kết luận giám định số 334/GĐMT-PC09(Đ4) ngày 06 tháng 12 năm 2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu kết luận: Mẫu chất bột màu trắng chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Công an phường Thắng Nhì - CATP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cùng các chữ ký ghi họ tên: “Trung tá Hoàng Văn Hiển”, Phạm Văn N, Nguyễn Việt Tú, Huỳnh Hữu Trung Thông, gửi đến giám định có khối lượng 0,3884 gam, là chất ma túy, loại Heroine.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Phạm Văn N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên và không có ý kiến gì về bản kết luận giám định số 334/GĐMT-PC09(Đ4) ngày 06 tháng 12 năm 2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và bản cáo trạng số 59/CT-VKSTPVT ngày 11/3/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Vũng Tàu giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Phạm Văn N đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bản cáo trạng số 59/CT-VKSTPVT ngày 11/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố Phạm Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý ” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điêu 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 xử phạt bị cáo Phạm Văn N từ 15 đến 20tháng tù.

Đề nghị áp dụng Điều 56, Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 tổng hợp hình phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng tại bản án số 58/2018/HSST ngày 17/9/2018 của Toà án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh BR - VT do bị cáo phạm tội mới trong thời gian thử thách.

Về xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án là 01 gói đã niêm phong số 334/GĐMT-PC09(Đ4) ngày 06/12/2018 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu là ma túy nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đi với chiếc xe mô tô không rõ hiệu, biển số 60 Z2- 5447, có số khung: RLCS5C6107Y077414, số máy: 5C61077414, qua điều tra xác định, chiếc xe mô tô biển số 60 Z2- 5447 hiệu YUMACI, có số khung: 81001963 và số máy: 1001963. Xe mô tô có số khung: RLCS5C6107Y077414 và số máy: 5C61077414 hiệu YAMAHA loại SIRIUS, do chị Võ Thị Thúy N, sinh năm: 1983, HKTT: thôn Quảng Thành 1, xã N, huyện C, tỉnh B, chỗ ở hiện nay: 7/18A/4 đường 898, phường P, quận 9, TP H là chủ sở hữu. Tháng 9/2018, chị N đã bán chiếc xe trên cho một người không rõ lai lịch (việc mua bán sang tay). N khai: N quen biết một thanh niên tên D không rõ lai lịch khi chơi Net ở khu vực Hắc Dịch, thị xã Phú Mỹ và đã mượn chiếc xe trên đi mua ma túy sử dụng thì bị bắt. Ngày 28/01/2019, cơ quan CSĐT Công an TP Vũng Tàu đã ra thông báo trên Báo BR- VT tìm chủ sở hữu xe mô tô hiệu YAMAHA loại SIRIUS, có số khung: RLCS5C6107Y077414, số máy: 5C61077414 và chuyển giao xe trên đến Chi cục Thi hành án dân sự TP Vũng Tàu quản lý. Ngày 03/11/2018 anh Lê Xuân T (chủ sở hữu xe ) có đơn cớ mất xe hiệu Yamaha có số khung: RLCS5C6107Y077414, số máy: 5C61077414 tại Công an xã Suối Nghệ, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Anh T đã cung cấp giấy đăng ký xe mô tô trên và có đơn xin lại chiếc xe nên đề nghị trao trả chiếc xe cho anh Lê Xuân T. Đối với 01 biển số 60Z2- 5447 do không có giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đi vối 01 ĐTDĐ hiệu Mobell màu đen, Imel 1: 810033600772415, không kiểm tra chất lượng do không liên quan đến hành vi phạm tội nên đề nghị trả lại cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo công nhận Viện kiêm sát truy tố đúng người đúng tội và bị cáo chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần mức án.

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Hành vi của bị cáo được xác định như sau: Lúc 15h ngày 28/11/2018, tại hẻm 74 đường Thắng Nhì, phường Thắng Nhì, TP Vũng Tàu, Công an phường Thắng Nhì, TP Vũng Tàu kiểm tra, bắt quả tang Phạm Văn N đang tàng trữ 0,3884 gam Heroine. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.

[3]. Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội bị cáo gây ra là nguy hiêm cho xã hội , là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tệ nạn xã hội và tội phạm khác liên quan đến ma tuý; gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, việc tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn bất chấp tiếp tục đi vào con đường nghiện ngập dẫn đến việc tàng trữ ma túy để sử dụng. Vì vậy cần có hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự :

[4.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4.2]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, vì vậy cần xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo đang chấp hành hình phạt 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án ( ngày 17/9/2018) về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 58/2018/HSST ngày 17/9/2018 của Toà án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh BR – VT. Tuy nhiên trong thời gian thử thách bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới, do đó áp dụng Điều 56, khoản 6 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 buộc bị cáo phảo chấp hành hình phạt của bản án số 58/2018/HSST ngày 17/9/2018 của Toà án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh BR – VT và tổng hợp với hình phạt chung đối với bị cáo Phạm Văn N.

[4]. Về xử lý vật chứng :

- Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 01 gói đã niêm phong số 334/GĐMT- PC09(Đ4) ngày 06/12/2018 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu là ma túy nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe mô tô biển số 60 Z2-5447, có số khung: RLCS5C6107Y077414, số máy: 5C61077414, qua điều tra xác định, chiếc xe mô tô biển số 60 Z2-5447 hiệu YUMACI, có số khung: 81001963 và số máy: 1001963. Xe mô tô có số khung: RLCS5C6107Y077414 và số máy: 5C61077414 hiệu YAMAHA loại SIRIUS, do chị Võ Thị Thúy N, sinh năm: 1983, HKTT: thôn Quảng Thành 1, xã N, huyện C, tỉnh B, chỗ ở hiện nay: 7/18A/4 đường 898, phường P, quận 9, TP H là chủ sở hữu. Tháng 9/2018, chị N đã bán chiếc xe trên cho một người không rõ lai lịch (việc mua bán sang tay).

N khai: N quen biết một thanh niên tên D không rõ lai lịch khi chơi Net ở khu vực Hắc Dịch, thị xã Phú Mỹ và đã mượn chiếc xe trên đi mua ma túy sử dụng thì bị bắt. Ngày 28/01/2019, cơ quan CSĐT Công an TP Vũng Tàu đã ra thông báo trên Báo BR- VT tìm chủ sở hữu xe mô tô hiệu YAMAHA loại SIRIUS, có số khung: RLCS5C6107Y077414, số máy: 5C61077414 và chuyển giao xe trên đến Chi cục Thi hành án dân sự TP Vũng Tàu quản lý. Ngày 03/11/2018 anh Lê Xuân T (chủ sở hữu xe ) có đơn cớ mất xe hiệu Yamaha có số khung: RLCS5C6107Y077414, số máy: 5C61077414 tại Công an xã Suối Nghệ, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Anh T đã cung cấp giấy đăng ký xe mô tô trên và có đơn xin lại chiếc xe nên trao trả chiếc xe cho anh Lê Xuân T là phù hợp.

- Đối với 01 biển số 60Z2- 5447 do không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối vối 01 ĐTDĐ hiệu Mobell màu đen, Imel 1: 810033600772415, không kiểm tra chất lượng do không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[5]. Các vấn đề khác: Đối với người người đàn ông ở khu vực đường Thắng Nhì bán ma túy cho N, do không rõ lai lịch, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, xử lý theo quy định pháp luật.

[6]. Về án phí: bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý ”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điêu 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Xử phạt: Phạm Văn N 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý .

Áp dụng khoản 5 Điều 65, Điều 56 Bộ luật Hình sự 2015 tổng hợp hình phạt 09 ( chín ) tháng tù tại bản án số 58/2018/HSST ngày 17/9/2018 của Toà án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Hình phạt chung bị cáo phải chấp hành là 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28 tháng 11 năm 2018.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu huỷ 01 gói đã niêm phong số 334/GĐMT-PC09(Đ4) ngày 06/12/2018 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và 01 biển số 60Z2-5447.

- Trả lại cho bị cáo Phạm Văn N 01 ĐTDĐ hiệu Mobell màu đen, Imel 1: 810033600772415, không kiểm tra chất lượng.

- Trả lại cho anh Lê Xuân T 01 xe mô tô hiệu Yamaha có số khung: RLCS5C6107Y077414, số máy: 5C61077414 (đã hư hỏng), không kiểm tra chất lượng bên trong.

Vật chứng nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 59/BB.THA ngày 11/32019.

- Án phí HSST: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng).

- Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Riêng những người vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết công khai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2019/HSST ngày 10/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:56/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về