Bản án 52/2020/HS-ST ngày 24/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 52/2020/HS-ST NGÀY 24/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 47/2020/HSST ngày 18 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Giàng A U (tên gọi khác: Không có), sinh ngày 02 tháng 9 năm 1995 tại Lai Châu. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản L, xã Thèn S, huyện T, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Giáy; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Giàng A B, sinh năm 1966 và bà Lý Thị L, sinh năm 1968; vợ: Pan Thị H, sinh năm 1996; con: Có 01 con, sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/01/2020 đến nay. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Giàng A U: Bà Triệu Thị Kim L, Luật sư thực hiện Trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà n  ước tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

-Người chứng kiến: Ông Lục Văn T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 13 giờ 10 phút, ngày 02/01/2020 tại khu vực cổng Sở Tài chính tỉnh Lạng Sơn, số ** đường Q, phường V tổ công tác Công an thành phố Lạng Sơn bắt quả tang Giàng A U có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy thu giữ 02 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột mầu trắng và 01 điện thoại nhãn hiệu VIVO X9L, màu xanh.

Tại kết luận giám định số 50/KL-PC09 ngày 03/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn, kết luận:

"Chất bột màu trắng có trong 02 (hai) gói giấy mầu trắng thu giữ của Giàng A U gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,208 gam (đã trừ bì)".

Tại Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn Giàng A U khai: Bản thân sử dụng chất ma túy từ đầu năm 2019, khoảng 12 giờ ngày 02/01/2020 Giàng A U đi xe ôm từ khu vực ngã tư M, phường V, thành phố Lạng Sơn đến bến xe phía Bắc, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn để bắt xe khách về Lai Châu. Khi đang đi trên đường thì người đàn ông lái xe ôm (Giàng A U không rõ tên, tuổi, địa chỉ) hỏi có bị cáo có mua ma túy không thì Giàng A U đồng ý, người đàn ông lái xe ôm đưa Giàng A U đến khu vực ngã ba đường L - Q, phường V, thành phố Lạng Sơn và bảo Giàng A U ngồi đợi ở quán nước gần đó. Giàng A U đưa cho người đàn ông lái xe ôm 200.000 đồng để mua ma túy, người đàn ông lái xe ôm cầm tiền và đưa cho một nam thanh niên (không rõ tên tuổi, địa chỉ) ở gần đó để đi mua ma túy, lúc này người đàn ông lái xe ôm điều khiển xe mô tô đi đâu không rõ. Khoảng 15 phút sau có một nam thanh niên quay lại đưa cho Giàng A U 01 (một) gói giấy màu trắng bên trong 02 (hai) gói giấy mầu trắng chứa ma túy Heroine. Giàng A U cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái đang đi tìm nơi sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang.

Tại bản Cáo trạng số 51/CT-VKS, ngày 16/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Giàng A U về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Giàng A U khai nhận: Ngày 02/01/2020 bị cáo có hành vi mua 200.000 đồng với một người đàn ông, bị cáo không biết tên tại khu vực ngã ba đường L - Q, phường V, thành phố Lạng Sơn được 01 (một) gói giấy màu trắng bên trong có 02 (hai) gói giấy mầu trắng chứa ma túy Heroine, khi bị cáo đang đi tìm nơi để sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an thành phố Lạng Sơn kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng với cùng tang vật.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Giàng A U phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Giàng A U từ 15 tháng đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có điều kiện thi hành. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Đề nghị tịch thu để tiêu hủy gồm 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định chất ma túy; Trả lại cho bị cáo Giàng A U 01 (một) điện thoại hiệu VIVO X9L, màu xanh, số Imei 1: 865730038980377; số Imei2: 865730038980369. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo Giàng A U: Bà Triệu Thị Kim L, trình bày: Về trách nhiệm hình sự đồng tình với Cáo trạng về tội danh đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về nhân thân, bị cáo là nhân dân lao động sinh sống tại khu vực có điệu kiện kinh tế khó khăn, nên về nhận thức về pháp luật có phaanf còn hạn chế. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử mức án thấp hơn so với mức án Viện kiểm sát đề nghị, thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Giàng A U đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận bị cáo Giàng A U phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Giàng A U là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của con người, nền kinh tế của đất nước, hành vi đó gây mất trật tự an ninh tại địa phương. Bị cáo nhâ n thức được tác hại của ma túy, bị cáo biết hành vi tàng trữ chất ma túy là trái phép bị pháp luâ t ngăn cấm nhưng do nghiện nên bị cáo đã tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân, vì vậy đối với hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật để nhằm răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nêu trên cần xem xét những yếu tố liên quan đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và các yếu tố khác có liên quan của bị cáo, trên cơ sở xem xét lời đề nghị, luận tội của Viện kiểm sát.

[4] Xét về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tình tiết tăng nặng: Không có.

[5] Từ những phân tích như trên Hội đồng xét xử thấy rằng cần xử phạt bị cáo Giàng A U tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng để thi hành.

[6] Về xử lý vật chứng gồm: 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định chất ma túy, là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 (một) điện thoại hiệu VIVO X9L, màu xanh, số Imei1: 865730038980377; số Imei2: 865730038980369 thu giữ của bị cáo, xác định không liên quan đến việc phạm tội, trả lại cho bị cáo Giàng A U.

[7] Đối với người đàn ông lái xe ôm và người bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết danh tính và địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn không có cơ sở xác minh để làm rõ xử lý trong vụ án nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[8] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo là nghiêm khắc, hội đồng xét xử sẽ xem xét khi lượng hình; hướng xứ lý vật chứng đúng quy định của pháp luật được Hội đồng xét xử chấp nhận; xét đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Về chứng cứ tài liệu trong vụ án được thu thập, bảo quản đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[10] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Giàng A U phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Giàng A U mức án 01 (một) năm tù; thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 02/01/2020.

3. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu để tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định chất ma túy.

- Trả lại cho bị cáo Giàng A U: 01 (một) điện thoại hiệu VIVO X9L, màu xanh, số Imei1: 865730038980377; số Imei2: 865730038980369.

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16 tháng 3 năm 2020 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Giàng A U phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2020/HS-ST ngày 24/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:52/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về