Bản án 51/2019/HS-ST ngày 22/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 51/2019/HS-ST NGÀY 22/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở UBND xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 49/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Văn L, sinh ngày 01 tháng 6 năm 1986; tại: tỉnh Tây Ninh. Nơi cư trú: ấp B, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn S (đã chết) và bà Nguyễn Thị N (đã chết); vợ, con: chưa có; tiền án: không có, tiền sự: Quyết định số 01/QĐ-UBND ngày 08/01/2018, của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với Lê Văn L, thời hạn 03 tháng, kể từ ngày 08/01/2018, chấp hành xong ngày 08/4/2018; bị tạm giữ ngày 23-7-2019, đến ngày 26-7-2019 chuyển tạm giam đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 09 giờ 00 phút ngày 23-7-2019, tại ấp C, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh phối hợp Công an xã A kiểm tra, phát hiện Lê Văn L cất giấu trong túi quần dài treo gần chỗ ngủ của bị cáo 02 bịch nylon màu trắng, hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng (nghi là ma túy) nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ người và tang vật để điều tra làm rõ.

Qua quá trình điều tra đã kết luận: Vào hồi 22 giờ ngày 22-7-2019 do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Lê Văn L thuê xe honda ôm của một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) đi từ ấp C, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh đến khu vực đường N thuộc thị trấn G, huyện G, tỉnh Tây Ninh gặp người tên L (không rõ họ tên, địa chỉ) để mua 02 bịch ma túy với giá 300.000 đồng. Sau khi mua ma túy xong, L cất giấu vào trong túi quần dài và thuê xe ôm trở về trại nuôi gà của anh Lê Thanh N, thuộc ấp C, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh và ngủ lại tại đây. Đến 9 giờ ngày 23-7-2019, Công an huyện B tiến hành kiểm tra, phát hiện lập biên bản bắt quả tang Lê Văn L cùng vật chứng. Tại Cơ quan điều tra, L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Kết luận giám định số1013/KL-KTHS ngày 12/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 02 (hai) bịch nylong màu trắng hàn kín (kí hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy; Là loại Methamphetamine; Khối lượng 0,3821 gam.

Vật chứng cơ quan điều tra thu giữ gồm:

- 02 (hai) bịch nylon màu trắng có chứa tinh thể màu trắng là Methamphetamine (kí hiệu M); có khối lượng 0,2898 gam;

- 01 (một) lọ nhựa màu xanh - trắng có dòng chữ Berocca.

Đi với người đàn ông tên L (đã bán ma túy cho L) không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xác minh làm rõ.

Đi với anh Lê Thanh N không biết việc L tàng trữ trái phép chất ma túy của L nên không xử lý.

Đi với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lê Văn L, Công an huyện B đã xử phạt vi phạm hành chính.

Lê Văn L không có tài sản nên Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh không kê biên tài sản.

Tại bản cáo trạng số: 52/CT-VKSBC ngày 29 tháng 8 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố Lê Văn L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn L đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249, Điều 38; điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Văn L từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: bị cáo không có tài sản nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật. Bị cáo L không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Khoảng 9 giờ, ngày 23-7-2019 tại ấp C, xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh, bị cáo L đã thực hiện hành vi tàng trữ 0,3821 gam chất ma túy, loại Methamphetamine thì bị bắt quả tang. Hành vi này có đủ căn cứ kết luận bị cáo Lê Văn L phạm tội: “tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo L, Cơ quan điều tra đã xử phạt hành chính xong.

Đi với người đàn ông tên L đã bán ma túy cho bị cáo L, không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xác minh làm rõ.

Đi với anh Lê Thanh N không biết việc bi cáo L tàng trữ trái phép chất ma túy nên không xử lý.

[3] Hành vi của bị cáo: mang tính chất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần nghiêm trị để có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận. Do đó xét thấy cần áp dụng hình phạt tù giam để cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian, để cải tạo giáo dục cho bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội, biết chấp hành pháp luật.

Khi quyết định hình phạt có xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là những tình tiết cần xem xét để giảm nhẹ một phần mức án cho bị cáo.

[4] Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản riêng, nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Hội đồng xét xử xét thấy:

- Đối với: 01 (một) gói niêm phong số 1079/KL-KTHS và 01 lọ nhựa màu xanh-trắng có dòng chữ Berocca là tang vật có liên quan trong vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo Lê Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điểm s Khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Lê Văn L 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23-7-2019.

Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo L.

2. Vật chứng:

Căn cứ Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong số 1079/KL-KTHS; 01 lọ nhựa màu xanh-trắng có dòng chữ Berocca.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11-9-2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh).

3. Về án phí: Căn cứ các Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30-12-2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Bị cáo L phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo L biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2019/HS-ST ngày 22/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:51/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về