TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 50/2019/HSST NGÀY 20/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 6 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 51/2019/HSST ngày 31 tháng 5 năm 2019, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2019, đối với bị cáo:
Lê Văn B, sinh ngày 04 tháng 10 năm 1981, tại Hoành Sơn, Giao Thủy, Nam Định; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: xóm 9, xã H, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hải T và bà Vũ Thị Kh (đã chết); Tiền án, Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 27 tháng 12 năm 2018 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giao Thủy đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự số 20 và Quyết định khởi tố bị can số 43 đối với Lê Văn B về tội “Đánh bạc” và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Ngày 12 tháng 4 năm 2019 Lê Văn B bị Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy xử phạt 09 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/3/2019 đến nay có mặt.
- Người làm chứng:
+ Ông Phạm Đình Ph, sinh năm 1949
Địa chỉ: xóm 9, xã H, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định
+ Ông Đặng Văn H, sinh năm 1953
Địa chỉ: xóm 2, xã H, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định
Tại phiên tòa: Ông Ph, ông H vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 27/3/2019 tổ công tác phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Nam Định phối hợp với Công an xã H, huyện Giao Thủy tới nhà Lê Văn B kiểm tra hành chính. Qúa trình kiểm tra Lê Văn B đã tự giác giao nộp cho tổ tuần tra 03 gói nhỏ được gói bằng giấy bạc màu trắng, B khai đó là heroin cất giấu để sử dụng cho bản thân được niêm phong ký hiệu M1. Tiến hành khám xét khẩn cấp nhà B còn thu giữ trên mặt sàn bếp của nhà B 01 gói nhỏ được gói bằng giấy bạc màu trắng Bằng khai là heroin cất giấu để sử dụng được niêm phong ký hiệu M2. Tổ tuần tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định.
Tại bản kết luận giám định số 329/GĐKTHS ngày 29/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận:
“Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 02 (hai) phong bì thư được niêm phong ký hiệu M1 và M2 gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Tổng khối lượng mẫu M1: 0,271 gam, khối lượng mẫu M2: 0,096gam”.
Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Giao Thủy Lê Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Bản cáo trạng số 51/CT-VKS ngày 29/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định đã truy tố Lê Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Kiểm sát viên sau khi xem xét, phân tích đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo giữ nguyên quan điểm như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt Lê Văn B từ 24 tháng đến 30 tháng tù.
Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự: Tổng hợp với bản án số 28/2019/HSST ngày 12/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định là 09 chín tháng tù. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án từ 33 tháng đến 39 tháng tù.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện, chưa có gia đình riêng đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số Heroin hoàn trả mẫu vật sau giám định.
Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, bị cáo không có ý kiến gì khi nói lời sau cùng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Bị cáo Lê Văn B đã có hành vi cất giấu trái phép 04 gói chất bột màu trắng bị Công an thu giữ ký hiệu M1 và M2, bị cáo khai là Heroin để sử dụng cho bản thân. Tại bản kết luận giám định số 329/GĐKTHS ngày 29/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: “Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 02 (hai) phong bì thư được niêm phong ký hiệu M1 và M2 gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Tổng khối lượng mẫu M1: 0,271 gam, khối lượng mẫu M2: 0,096gam”. Do đó bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ”. Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an tại địa phương. Để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, cần phải xử phạt bị cáo nghiêm minh mới đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung.
Khi quyết định hình phạt, HĐXX xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với bị cáo như sau:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Do đó cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn, buộc bị cáo phải tập trung cải tạo một thời gian nhất định đủ để khi trở về cộng đồng là công dân có ích cho gia đình và xã hội.
[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng ... tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, chưa có gia đình riêng, không có tài sản. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng: Số heroin vật chứng của vụ án được hoàn trả sau giám định, áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu cho tiêu hủy.
[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51Bộ luật hình sự:
Tuyên bố bị cáo Lê Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt Lê Văn B 21 (hai mươi mốt)tháng tù.
Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự: Tổng hợp hình phạt 09 tháng tù tại bản án số 28/2019/HSST ngày 12/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Buộc bị cáo Lê Văn B phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27-3-2019, được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 18/12/2018 đến ngày 27/12/2018 tại bản án hình sự số 28/2019/HSST ngày 12/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy.
2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu cho tiêu huỷ toàn bộ số heroin mẫu vật hoàn trả sau giám định (được ghi chi tiết tại biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 31-5-2019 giữa Công an huyện Giao Thủy và Chi cục thi hành án dân sự huyện Giao Thủy).
3. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Lê Văn B phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án 50/2019/HSST ngày 20/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 50/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/06/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về