Bản án 49/2019/HS-ST ngày 20/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 49/2019/HS-ST NGÀY 20/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 49/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2019, đối với bị cáo:

Trịnh B B; sinh ngày 14 tháng 4 năm 1977 tại huyện X, tỉnh N; nơi cư trú: Xóm Văn Phú, xã X, huyện X, tỉnh N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn (văn hóa): 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh B M (đã chết) và bà Nguyễn T L; có vợ là chị Tống T H (đã ly hôn) và có 01 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Năm 1998, bị TAND quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; ngày 26/7/2006, bị TAND quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 26/10/2015, bị TAND quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ra trại ngày 25/5/2016; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/3/2019 cho đến nay. Có mặt.

Người làm chứng: Bà Nguyễn T L; sinh năm 1953. Nơi cư trú: Xóm Văn Phú xã X, huyện X, tỉnh N. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 04/3/2019, tổ công tác Công an huyện Giao Thủy phối hợp cùng Công an xã GT, huyện G tuần tra tại khu vực dốc Hoành Nha thuộc xóm 5 Quyết Tiến, xã GT, huyện G phát hiện Trịnh B B điều khiển xe máy nhãn hiệu SYM, Angel BKS 18S4-1897 có biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác đã yêu cầu B dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, B đã tự giác giao nộp 08 gói nhỏ được gói bằng giấy báo bên trong các gói đều có chứa chất bột dạng cục màu trắng, B khai là heroin vừa mua với giá 2.400.000 đồng với mục đích để sử dụng cho bản thân, được niêm phong ký hiệu M1. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ của B 01 xe máy Angel màu nâu BKS 18S4-1897. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định.

Tại bản kết luận giám định số 241/GĐKTHS ngày 05/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định đã kết luận: “Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 08 (tám) gói nhỏ đều gói bằng loại giấy báo được niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Tổng khối lượng mẫu M1: 1,683 gam”.

Bản Cáo trạng số 50/CT-VKS ngày 27/5/2019 của Viê n kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo Trịnh B B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy thực hành quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trịnh B B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số heroine hoàn trả mẫu vật sau giám định.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi vi phạm và không tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của những người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ của vụ án có đủ cơ sở xác định: Khoảng 10 giờ ngày 04/3/2019, tổ công tác Công an huyện Giao Thủy phối hợp cùng Công an xã GT, huyện G, tỉnh Nam Định tuần tra tại khu vực dốc Hoành Nha thuộc xóm 5 Quyết Tiến, xã GT, huyện G phát hiện Trịnh B B có hành vi cất giấu trái phép 08 gói heroine có tổng khối lượng 1,683 gam với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy đã truy tố Trịnh B B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ pháp luật.

[3] Về tính nguy hiểm của hành vi: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có đủ khả năng nhận thức ma túy là hiểm họa của mỗi gia đình và cộng đồng xã hội, là một trong những nguyên nhân làm gia tăng các tệ nạn xã hội, gia tăng tội phạm hình sự, xâm phạm tới đạo đức và sức khỏe con người . Bị cáo đã 03 lần phải đi chấp hành án phạt tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục phạm tội, chứng tỏ bị cáo bất chấp coi thường kỷ cương pháp luật. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội của với tính chất nghiêm trọng. Để giữ gìn kỷ cương của pháp luật cần xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự bằng một bản án nghiêm minh để giáo dục riêng đối với bị cáo và đáp ứng công tác phòng chống tội phạm nói chung.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt đối với bị cáo: Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, có như vậy mới có tác dụng cải tạo bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời mới có tác dụng răn đe phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo như quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[7] Về nguồn gốc số heroine B cất giấu để sử dụng trái phép cho bản thân, B khai mua của một người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ tại khu vực dốc Hoành Nha thuộc xóm 5 Quyết Tiến xã GT, huyện G, tỉnh Nam Định với giá 2.400.000 đồng, trên đường đi về B bị cơ quan Công an kiểm tra bắt giữ. Quá trình điều tra không xác định được người bán heroine cho B nên không có căn cứ để xử lý.

[8] Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ: Đối với số heroine hoàn trả sau giám định cần tịch thu cho tiêu hủy.

Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 18S4-1897 đã thu giữ của B, quá trình điều tra xác định chiếc xe trên B mượn của mẹ đẻ là bà Nguyễn T L. Khi B lấy xe để đi mua ma túy bà L không biết nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giao Thủy đã trả lại chiếc xe trên cho bà L là phù hợp.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Trịnh B B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Xử phạt bị cáo Trịnh B B 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/3/2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả mẫu vật sau giám định.

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 29/5/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Giao Thủy).

3. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2019/HS-ST ngày 20/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:49/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về