Bản án 49/2017/HSST ngày 17/07/2017 về tội trộm cắp tài tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 49/2017/HSST NGÀY 17/07/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI TÀI SẢN

Ngày 17 thaùng 7 năm 2017 taïi trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 35/2017/TLST - HS ngày 22 tháng 5 năm 2017 đối với bị cáo:

Kiều Mạnh L(tên gọi khác: Cu Linh), sinh năm 1993 tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Nơi cư trú: tổ 5, ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; Số CMND 273595112; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa 10/12; con ông Kiều Mạnh L và bà Bùi Thị A; có vợ là Nguyễn Hoàng Hoa N và một con (sinh năm 2015); tiền sự, tiền án: không; bị bắt tạm giam ngày 04/10/2016 (đang chấp hành hình phạt tù tại Nhà tạm giữ Công an huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ( có mặt).

- Bị hại: Anh Trần Công T, sinh năm 1994; trú tại: ấp B, xã P, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

- Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khoảng 08 giờ ngày 12/7/2016, Kiều Mạnh Lvà đối tượng tên Hùng (không rõ lai lịch) đi từ huyện Long Điền đến huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tìm xe máy để trộm bán lấy tiền tiêu xài; Hùng dùng xe Exciter (không rõ biển số) của mình chở Kiều Mạnh Lmang theo một đoản phá khóa tự chế. Đến 11 giờ cùng ngày, khi đang ngồi uống nước mía tại quán của chị Trương Thị Mỹ Thu ở ấp 1, xã Bưng Riềng, huyện Xuyên Mộc, Hùng phát hiện thấy xe mô tô hiệu Suzuki, loại Raider, biển số 72G1 - 274.82 của anh Trần Công T dựng trong hiên nhà chị Trần Thị Thanh Tuyền ở kế bên, không người trông coi; Hùng rủ Kiều Mạnh Lcùng trộm cắp, Linh đồng ý; Hùng đứng ngoài cảnh giới, Linh lén lút đến vị trí xe 72G1 - 274.82 dùng đoản phá khóa và dắt xe ra ngoài, rồi cả hai tẩu thoát. Khi anh Trần Công T phát hiện Kiều Mạnh Lđang dẫn xe ra ngoài quốc lộ 55 nên truy hô và lấy xe máy đuổi theo nhưng không bắt được. Kiều Mạnh Lchạy xe về thị trấn Long Hải, huyện Long Điền cất giấu, sau đó tháo biển số 72G1 - 274.82 vứt bỏ và gắn biển số 60B6 - 225.74 vào, nhằm mục đích tránh bị phát hiện.

Ngày 16/7/2016, Kiều Mạnh Lđiều khiển xe Suzuki, loại Raider nói trên đến xã Tam Phước, huyện Long Điền đánh bạc, bị Công an xã thu giữ xe, còn Linh bỏ trốn.

Ngày 04/10/2016, Kiều Mạnh Lbị Công an huyện Long Điền bắt tạm giam về hành vi trộm cắp tài sản, tại đây Linh khai nhận xe mô tô hiệu Suzuki, loại Raider, biển số 60B6 - 225.74 là do Linh trộm cắp được tại xã Bưng Riềng, huyện Xuyên Mộc. Cơ quan điều tra Công an huyện Long Điền chuyển xe mô tô hiệu Suzuki, loại Raider, biển số 60B6 - 225.74 cho Cơ quan điều tra Công an huyện Xuyên Mộc xử lý theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra, Kiều Mạnh Lkhai hành vi của mình như trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 85/KL - HĐĐG ngày 29/11/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Xuyên Mộc kết luận: Xe mô tô hiệu Suzuki, loại Raider, màu xanh, số máy G427 - 104.836, số khung 41.JOE.014.878 tại thời điểm xảy ra vụ án trị giá 36.251.600đ.

Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Cơ quan chức năng đã thu giữ chiếc xe mô tô hiệu Suzuki, loại Raider, màu xanh, số máy G427 - 104.836, số khung 41.JOE.014.878. Về nguồn gốc của xe mô mô tô hiệu hiệu hiệu Suzuki, loại Raider nói trên do anh Trần Công T làm chủ sở hữu bị Kiều Mạnh Ltrộm cắp. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuyên Mộc đã trả lại xe cho anh Trần Công T.

Về vấn đề bồi thường thiệt hại: Người bị hại anh Trần Công T đã nhận lại chiếc xe mô tô hiệu Suzuki, loại Raider, màu xanh, số máy G427-104.836, số khung 41.JOE.014.878 của mình. Đối với biển số xe 72.G1 - 274.82 đã bị mất thì anh Trần Công T tự chịu chi phí làm lại và không có yêu cầu bồi thường.

- Tại bản Cáo trạng số 41/QĐ-KSĐT ngày 19 tháng 5 năm 2017 Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu truy tố Kiều Mạnh Lvề tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa tòa, bị cáo Kiều Mạnh Lkhai hành vi phạm tội như bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu truy tố.

Tại phiên tòa tòa , đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc phát biểu: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Kiều Mạnh Lvề tội danh như nội dung bản Cáo trạng. Về điều luật áp dụng, tại bản Cáo trạng đề nghị xét xử Kiều Mạnh Ltheo điểm b khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (phạm tội có tính chất chuyên nghiệp). Qua thẩm tra tại phiên tòa, xét thấy bị cáo Kiều Mạnh Lphạm tội không thuộc trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp mà thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần nên rút một phần quyết định truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt Kiều Mạnh Ltừ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù.

Tại phiên tòa, bị hại anh Trần Công T phát biểu ý kiến cho rằng: Cơ quan chức năng đã trả lại chiếc xe mô tô hiệu Suzuki, loại Raider, màu xanh, số máy G427 - 104.836, số khung 41.JOE.014.878 cho anh Trần Công T. Đối với biển số xe 72.G1 - 274.82 đã bị mất thì anh Trần Công T tự chịu chi phí làm lại và không có yêu cầu bồi thường. Đề nghị Hội đồng xét xử bị cáo Kiều Mạnh Lđảm bảo công bằng, đúng pháp luật.

Bi cáo Kiều Mạnh Lcó lời nói sau cùng như sau: Bản thân bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn khai báo, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1].Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định truy tố:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.

[2].Về những chứng cứ xác định có tội:

Lời khai nhận tội của bị cáo Kiều Mạnh Lphù hợp với lời khai của người bị hại Trần Công T, bản kết luận định giá tài sản số 85/KL - HĐĐG ngày 29/11/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Xuyên Mộc và phù hợp các chứng cứ khác, đủ cơ sở xác định: Kiều Mạnh Llà người khỏe mạnh với bản tính tham lam. Để có tiền tiêu xài, Kiều Mạnh Lđã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu để xe mô tô trong hiên nhà nhưng không có người trông coi, Kiều Mạnh Llén lút chiếm đoạt của anh Trần Công T chiếc xe mô tô hiệu Suzuki, loại Raider, màu xanh, số máy G427 - 104.836, số khung 41.JOE.014.878, trị giá 36.251.600đ (ba mươi sáu triệu, hai trăm năm mươi mốt ngàn, sáu trăm đồng). Từ những cơ sở trên đủ yếu tố kết luận Kiều Mạnh Lphạm tội “trộm cắp tài sản”. Tại điểm a Khoản 1 Điều 4 Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc Hội về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ Luật hình sự số 100/2015/QH13 có quy định: “ kể từ ngày 01/7/2016 thực hiện quy định có lợi cho người phạm tội tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015”. Sau khi so sánh tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 có hình phạt nặng hơn so với Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 nên áp dụng Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 để xét xử bị cáo Kiều Mạnh Linh.

[3].Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về thiệt hại do tội phạm gây ra: Tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo chẳng những xâm hại tài sản của công dân, mà còn ảnh hưởng trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Vì vậy, phải xử lý nghiêm cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

- Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Năm 2013, Kiều Mạnh Lbị Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo Bản án số 01/2013/HSST ngày10/01/2013 ( đã được xóa án tích).

Trong năm 2016, Kiều Mạnh Ltrộm cắp tài sản tổng cộng 06( sáu) vụ, trong đó tại huyện Long Điền 05 vụ và 01 vụ tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu xử phạt Kiều Mạnh L05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo Bản án số 11/2017/HSST ngày 22/02/2017.

Như vậy, Kiều Mạnh Lcó nhân thân xấu, phạm tội nhiều lần, áp dụng điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự để tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

- Về tình tiết định khung hình phạt: Với các chứng cứ có tại hồ sơ, qua thẩm tra tại phiên tòa, xét thấy bị cáo Kiều Mạnh Lphạm tội không thuộc trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp mà thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần, thể hiện khi bị bắt tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu thì Kiều Mạnh Lđã khai nhận tổng cộng 06 ( sáu) vụ trộm cắp tài sản, trong đó tại huyện Long Điền 05 vụ (đã bị xét xử, có áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp) và 01 vụ tại huyện Xuyên Mộc (theo thứ tự đây là vụ thứ hai). Do đó, lần xét xử này, bị cáo chỉ bị xét xử theo khoản 1 Điều 173 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo Kiều Mạnh Lđã thành khẩn khai báo, áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 để giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

- Về tổng hợp hình phạt: Lần phạm tội này sẽ được tổng hợp với Bản án số 11/2017/HSST ngày 22/02/2017 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung theo nguyên tắc tổng hợp hình phạt theo Điều 50, Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 1999.

- Về thời gian chấp hành án của bị cáo: Theo Bản án số 11/2017/HSST ngày 22/02/2017 của Tòa án nhân dân Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt bị cáo Kiều Mạnh L05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 04/10/2016, trong quá trình chấp hành án bị cáo chưa được xét giảm án.

- Về phạt tiền: Luật không có quy định nên không áp dụng.

- Về thu lợi bất chính: Không có.

[4].Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Cơ quan chức năng đã thu giữ chiếc xe mô tô hiệu Suzuki, loại Raider, màu xanh, số máy G427 - 104.836, số khung 41.JOE.014.878. Về nguồn gốc của xe mô mô tô hiệu hiệu hiệu Suzuki, loại Raider nói trên do anh Trần Công T làm chủ sở hữu bị Kiều Mạnh Ltrộm cắp. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuyên Mộc đã trả lại xe cho anh Trần Công T là có căn cứ, đúng pháp luật, theo quy định Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với chiếc đoản bằng kim loại (một đầu dẹp, một đầu hình lục giác) là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội và biển số xe 72.G1 - 274.82 thuộc quyền sở hữu của anh Trần Công T đã bị mất, chưa thu hồi được, Cơ quan điều tra đề nghị khi nào truy tìm được sẽ đề xuất xử lý sau là đúng pháp luật.

Đối với biển số xe 60B6 - 225.74 là biển số của chiếc xe Wave@ màu đen bạc, nhãn hiệu HonDa, số khung RLHHC1211DY177895, số máy HC12E - 5177997 do Nguyễn Thành Lợi (sinh năm 1995, trú tại tổ 3, ấp 2. Xã Xuân Tây, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai) đứng tên đăng ký chủ sở hữu, có liên quan đến vụ án trộm cắp tại huyện Long Điền. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuyên Mộc đã đề nghị tách biển số xe 60B6 - 225.74 ra khỏi vụ án và chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu để tiến hành điều tra theo thẩm quyền là phù hợp, đúng pháp luật.

[5].Về vấn đề bồi thường thiệt hại:

Người bị hại anh Trần Công T đã nhận lại chiếc xe mô tô hiệu Suzuki, loại Raider, màu xanh, số máy G427 - 104.836, số khung 41.JOE.014.878 của mình.

Đối với biển số xe 72.G1 - 274.82 đã bị mất thì anh Trần Công T tự chịu chi phí làm lại và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên xem như phần trách nhiệm dân sự của vụ án đã giải quyết xong.

[6].Về vấn đề khác: Đối với đối tượng tên Hùng cùng Kiều Mạnh Lthực hiện hành vi trộm cắp. Cơ quan điều tra chưa chứng minh được người tên Hùng này cùng tham gia trộm cắp nên tách riêng để tiếp tục điều tra, nếu có căn cứ sẽ đề xuất xử lý sau là phù hợp, đúng pháp luật.

[7].Vấn đề án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Kiều Mạnh L phạm tội “Trộm cắp tài tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 33, điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt Kiều Mạnh L01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Áp dụng Điều 50, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 1999; tổng hợp hình phạt 05 (năm) năm tù của Bản án số 11/2017/HSST ngày 22/02/2017 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, buộc bị cáo Kiều Mạnh Lphải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 04/10/2016.

2.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự , bị cáo Kiều Mạnh Lphải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3.Về nghĩa vụ chậm thi hành án:

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

4.Về quyền kháng cáo đối với Bản án:

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo Bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2017/HSST ngày 17/07/2017 về tội trộm cắp tài tài sản

Số hiệu:49/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về