Bản án 44/2018/HSST ngày 28/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 44/2018/HSST NGÀY 28/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 44/2018/HSST ngày 07 tháng 9 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2018/QĐXX-HS ngày 17 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo Đỗ Kiên C, sinh năm 1987; nơi ĐKHKTT và cư trú: T 5, thị trấn BS, huyện KB, tỉnh HN; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Thanh Tr và bà Nguyễn Thị Đ vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 28/6/2018, tạm giam ngày 04/7/2018. Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Đỗ Thanh Tr, sinh năm 1952; trú tại: T5, thị trấn BS, huyện KB, tỉnh H N.

Có mặt.

- Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1950; trú tại: T5, thị trấn BS, huyện KB, tỉnh HN.

Có mặt.

* Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1979; trú tại: X1, thôn PĐ, xã LH, huyện KB, tỉnh HN. Vắng mặt.

- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1984; trú tại: AĐ, xã LH, huyện KB, tỉnh HN.

Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 26/6/2018, Công an tỉnh HN tuần tra trên địa bàn thôn AĐ, xã LH, huyện KB, tỉnh HN phát hiện thấy, Đỗ Kiên C, sinh năm 1987 ở t5, thị trấn BS, huyện KB đang điều khiển xe mô tô BKS 90B2 - 658.24 chở nam thanh niên ngồi sau tên H có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra thì nam thanh niên tên H bỏ chạy. Công an tỉnh HN phát hiện, thu giữ tại cạp quần đùi của Đỗ Kiên C đang mặc 02 gói giấy màu trắng, loại giấy có chữ và dòng kẻ, bên trong đều chứa chất bột màu trắng dạng cục. Đỗ Kiên C khai nhận chất bột màu trắng dạng cục bị thu giữ là ma túy, C cất giấu, mục đích để sử dụng. Công an tỉnh HN đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng ký hiệu QT01. Ngoài ra thu giữ của Đỗ Kiên C 01 điện thoại di động nhãn hiệu DBEIF; 01 xe mô tô BKS 90B2-658.24. Khám xét khẩn cấp chỗ ở, đồ vật của C, không phát hiện, thu giữ gì.

Tại bản kết luận giám định số 113/PC54- MT ngày 30/6/2018 của Công an tỉnh HN kết luận: Mẫu bột màu trắng dạng cục trong mẫu ký hiệu QT01gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,330gam. Heroine là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT 9, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ.

Về nguồn gốc ma túy: Đỗ Kiên C khai nhận, Cường đưa số tiền 290.000đồng cho nam thanh niên tên là H là bạn nghiện ma túy, sau đó điều khiển xe mô tô chở H đến khu vực thị trấn V Đ, huyện U H, thành phố HN để Hùng mua ma túy về cùng sử dụng. Do C không biết nam thanh niên tên là Hùng mua ma túy của ai và không biết họ, tên đệm, tuổi, địa chỉ cụ thể của nam thanh niên tên là H nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, làm rõ được.

Đối với vật chứng thu giữ: Cơ quan điều tra đã làm rõ chiếc điện thoại di động nhãn hiệu DBEIF là tài sản hợp pháp của C, không liên quan đến vụ án. Chiếc xe mô tô BKS90B2-658.24 xe đã qua sử dụng là tài sản hợp pháp của Đỗ Kiên C, dùng vào việc phạm tội.

Tại bản cáo trạng số 44/CT-VKSKB ngày 04/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố bị cáo Đỗ Kiên C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đỗ Kiên C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đỗ Kiên C từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 28/6/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong nguyên vẹn số 113/PC54-MT của Công an tỉnh Hà Nam, mẫu vật hoàn trả QT01. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu WINNER màu đỏ - đen, BKS 90B2-658.24. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu DBEIF. Án phí, bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo nhất trí với cáo trạng và luận tội của Viện kiểm sát. Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Kim Bảng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp.

[2] Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai nhận tội tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, người làm chứng, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy đã có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 11 giờ 45 phút, ngày 28 tháng 6 năm 2018, tại thôn AĐ, xã LH, huyện KB, tỉnh Hà Nam, Đỗ Kiên C đã cất giữ trái phép 0,330gam Heroine trong cạp quần đùi đang mặc, mục đích để sử dụng thì bị Công an tỉnh Hà Nam phát hiện và bắt quả tang. Hành vi đó của bị cáo Đỗ Kiên C đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại trực tiếp đến khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam bảo về đó là chính sách độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội. Hành vi cất giữ bất hợp pháp 0,330gam Heroine trong cạp quần đùi với mục đích để sử dụng của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì chất ma túy không những trực tiếp hủy hoại sức khỏe mà còn là nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng tội phạm trong xã hội. Xét về mặt chủ quan của tội phạm bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý, là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi cất giữ trái phép chất ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng, bị cáo không phải chịu. Do đó, khi quyết định hình phạt, Tòa án xem xét một cách đầy đủ, toàn diện vụ án, nhân thân bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để tuyên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 500.000.000đồng… hoặc bị tịch thu một phần tài sản hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và là người mắc nghiện ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về nguồn gốc số ma túy thu giữ trong vụ án: Bị cáo khai đưa tiền cho H và chở H đến khu vực thị trấn VĐ, huyện UH, thành phố HN để H vào mua. Do C không biết H mua ma túy của ai và C cũng không biết họ, tên đệm, tuổi, địa chỉ cụ thể của nam thanh niên đi cùng tên là H nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng: Các vật chứng đã được bàn giao đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Kim Bảng gồm: 01 phong bì niêm phong nguyên vẹn số 113/PC54-MT của Công an tỉnh Hà Nam, mẫu vật hoàn trả QT01 là vật chứng cấm tàng trữ lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu WINNER màu đỏ - đen, BKS 90B2-658.24. Qua phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ chủ xe Đỗ Kiên C, sinh năm 1987; địa chỉ: X5, thị trấn BS, huyện KB, tỉnh HN. Phiếu tra cứu xe máy vật chứng không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng và đã được Hội đồng định giá trị giá 30.000.000đồng. Bị cáo đã sử dụng chiếc xe máy này để đi mua ma túy về sử dụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa ông Tr và bà Đ là cha, mẹ đẻ của bị cáo đã trình bầy chiếc xe mô tô này do ông, bà bỏ tiền ra mua và nhờ bị cáo C đứng tên chủ sở hữu, nhưng ông Tr, bà Đ và bị cáo C không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Do vậy Hội đồng xét xử xác định chiếc xe này là tài sản hợp pháp của bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. 01 điện thoại di động nhãn hiệu DBEIF là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quam đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo theo quy định tại Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a, khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đồng theo quy định tại Điều 135; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Kiên C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đỗ Kiên C 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù, tính từ ngày bắt tạm giữ 28 tháng 6 năm 2018.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a, khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trả lại cho bị cáo Đỗ Kiên Cường 01 điện thoại di động nhãn hiệu DBEIF, máy đã qua sử dụng. Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong nguyên vẹn số 113/PC54-MT của Công an tỉnh Hà Nam, mẫu vật hoàn trả QT01. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu WINNER màu đỏ - đen, BKS 90B2-658.24 xe đã qua sử dụng (Tình trạng, số lượng, loại vật chứng cụ thể như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Bảng ngày 06/9/2018).

4. Án phí: Căn cứ Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo C phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2018/HSST ngày 28/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:44/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về