Bản án 433/2019/HNGĐ-ST ngày 30/10/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 433/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/10/2019 VỀ LY HÔN

Trong ngày 30 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A mở phiên toà xét sử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 328/2019/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2019 về việc “Xin ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 457/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 09 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc P, sinh năm: 1977.

2. Bị đơn: Ông Lương Hoàng S, sinh năm: 1975

Cùng cư trú: Tổ 07, ấp V, xã V, huyện A, tỉnh An Giang Tại phiên tòa các đương sự vắng mặt. Riêng bà P vắng có đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và bản tự khai cùng ngày 09/8/2019 cùng các tài liệu trong hồ sơ bà Nguyễn Thị Ngọc P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông S là do tự tìm hiểu, được hai bên gia đình đồng ý đứng ra tổ chức lễ cưới vào năm 2000, từ trước đến nay không đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn về chung sống và làm thuê tại xã V được một thời gian thì đi Bình Dương làm công nhân do kinh tế quá khó khăn, vợ chồng đôi khi có xảy ra mâu thuẫn nhưng cũng được xem là hạnh phúc. Đỉnh điểm của mâu thuẫn vợ chồng là cách đây khoảng tháng 6/2019, nguyên nhân là ông S tụ tập bạn bè uống rượu, không chăm lo gia đình, bà lên tiếng khuyên ngăn thì ông S ra tay đánh được hàng xóm xung quanh can ngăn nhiều lần, khi bà bị ông S đánh đến nhập viện thì bà nhận thấy không thể tiếp tục chung sống với ông S được nữa quyết định ly thân và nộp đơn xin ly hôn.

Về quan hệ con chung: Trong quá trình chung sống có 01 con chung tên Lương Thị N, sinh ngày 03/6/2002, hiện do bà P chăm sóc. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn bà đồng ý theo nguyện vọng của con, sống với bà thì bà không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con chung.

Về quan hệ tài sản chung: Bà và ông S tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về quan hệ nợ chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết Bị đơn ông Lương Hoàng S trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Điều kiện đi đến hôn nhân, thời gian chung sống, mâu thuẫn vợ chồng thống nhất với lời trình bày của bà P. Bản thân nhận thấy có lỗi nhiều lần nói chuyện và được gia đình hai bên hàn gắn, hứa sửa đổi nhưng không được bà P đồng ý. Nay nhận thấy vẫn còn tình cảm với bà P nên xin được hàn gắn, không đồng ý ly hôn.

Về quan hệ con chung: Thống nhất với lời trình bày của bà Phụng, tùy theo nguyện vọng của con muốn tiếp tục sống với ai.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Ông thống nhất với lời trình bày của bà P, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản ghi nhận ý kiến của cháu Lương Thị N ngày 04/9/2019 trình bày: Bà Nguyễn Thị P và ông Lương Hoàng S là mẹ và cha ruột. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn cháu có nguyện vọng được tiếp tục được tiếp tục sống với bà P và không yêu cầu gì với ông S.

Tại phiên tòa hôm nay bà P, ông S bảo lưu lời trình bày.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong việc thu thập chứng cứ, xác định tư cách của những người tham gia tố tụng là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa, thời hạn xét xử cũng như thủ tục xét xử được đảm bảo. Về nội dung giải quyết vụ án, xét thấy bà P và ông S không đăng ký kết hôn nên không được công nhận là vợ chồng, về tài sản chung và nợ chung ông bà thống nhất tự thỏa thuận và không yêu cầu giải quyết nên không đề cập xem xét, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà P xin ly hôn với ông S. Ông S hiện đang cư trú tại huyện A, tỉnh An Giang. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1, Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh An Giang.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa bà P và ông S từ khi tổ chức lễ cưới đến nay không thực hiện việc đăng ký kết hôn, lời khai trên phù hợp với Giấy xác nhận số 03/UBND-XN ngày 09/8/2019 của UBND xã V về tình trạng hôn nhân của ông S – bà P nên không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Xét yêu cầu của bà Ph xin được ly hôn với ông S, HĐXX xét thấy: Bà P và ông S không thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật vì vậy mối quan hệ hôn nhân giữa bà P và ông S không có giá trị pháp lý. Tòa án nhân dân huyện A căn cứ vào khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 tuyên bố không công nhận bà Nguyễn Thị Ngọc P và ông Lương Hoàng S là vợ chồng

[3] Về con chung: Bà P và ông S thống nhất có 01 con chung tên Lương Thị N, sinh ngày 03/6/2002, hiện do bà P chăm sóc.

Xét trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cháu N có nguyện vọng tiếp tục sống với bà P. Do đó, việc giao con chung cho bà P tiếp tục nuôi là phù hợp với nguyện vọng và quy định của pháp luật.

Theo quy định, khi ly hôn bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, bà P không yêu cầu ông Sang cấp dưỡng, HĐXX công nhận sự tự nguyện của bà.

Hội đồng xét xử cũng giải thích cho bà P biết: Việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con là không cố định, sẽ có thay đổi khi có yêu cầu chính đáng của một hoặc cả hai bên và trong thời gian nuôi con bà và những người thân trong gia đình phải có nghĩa vụ tạo điều kiện cho ông S đến thăm con chung, không ai cản trở ông S thực hiện quyền này.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà P và ông S tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không đề cập xem xét để giải quyết.

[5] Về án phí: Bà P phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Các Điều 53, Điều 15, điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Xử: Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Nguyễn Thị Ngọc P.

Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận bà Nguyễn Thị Ngọc P và ông Lương Hoàng S là vợ chồng.

Về quan hệ con chung: Bà P được tiếp tục nuôi cháu Lương Thị N, sinh ngày 03/6/2019.

Công nhận sự tự nguyện của bà P không yêu cầu ông S phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà P và những người thân trong gia đình phải tạo điều kiện cho ông S đến thăm con chung, không ai được cản trở ông S thực hiện quyền này.

Việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con không cố định sẽ thay đổi khi có yêu cầu chính đáng của một hoặc cả hai bên.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị Ngọc P phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm (được chuyển từ tiền tạm ứng án phí mà bà P đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A theo biên lai thu số 0011500 ngày 12/8/2019), bà P được nhận lại 1.125.000 đồng.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (30/10/2019) các bên có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo của các đương sự vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.

(Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 433/2019/HNGĐ-ST ngày 30/10/2019 về ly hôn

Số hiệu:433/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về