TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 430/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/10/2019 VỀ LY HÔN
Trong ngày 30 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A mở phiên toà xét sử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 305/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 8 năm 2019 về việc “Xin ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 456/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Đặng Thanh H, sinh năm: 1984;
Cư trú: Tổ 21, ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang
Bị đơn: Bà Đỗ Thị Bích T, sinh năm: 1989
Cư trú: Tổ 17, ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang.
Tại phiên tòa các đương sự vắng mặt, riêng ông H có đơn xin không tham gia phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn và bản tự khai cùng ngày 22/7/2019 cùng các tài liệu chứng cứ có trong vụ án ông Đặng Thanh H trình bày: Ông và bà T là do tự tìm hiểu, yêu thương nhau được hai bên gia đình đứng ra đồng ý tổ chức lễ cưới vào năm 2005, ông bà có đăng ký kết hôn tại UBND xã P ngày 07/7/2005. Sau khi kết hôn sống tại xã P, thu nhập ổn định, tình cảm vợ chồng được xem là hạnh phúc.
Đến năm 2016 vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, hai vợ chồng liên tục cãi vả phần vì kinh tế gia đình khó khăn, phần vì bất đồng trong cách nhìn nhận cuộc sống. Cuối năm 2016 ông và bà T nhận thấy không thể tiếp tục chung sống nên quyết định ly thân nhau, hai bên gia đình đã lên tiếng hàn gắn nhưng không thành. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, có quay về chung sống cũng không hạnh phúc nên ông H quyết định ly hôn với bà T.
Về quan hệ con chung: Trong quá trình chung sống có 01 con chung tên Đặng Thị Bích N, sinh ngày: 15/6/2006, hiện đang do ông H và gia đình cùng chăm sóc. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn ông yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con.
Về quan hệ tài sản chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về quan hệ nợ chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết Bà Đỗ Thị Bích T được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà vẫn vắng mặt không lý do. Do đó, Tòa án đã đến tận nhà bà đã ghi lời khai nhưng bà cũng không có mặt nên tiến hành lập biên bản về việc không làm việc được với đương sự vào ngày 11/9/2019.
Tại biên bản ghi nhận ý kiến của con chung ngày 11/9/2019 em Đặng Thị Bích N trình bày: Ông Đặng Thanh H và bà Đỗ Thị Bích T là cha mẹ ruột nhưng không chung sống với nhau nhiều năm nay. Nay ông H xin ly hôn, cháu không có ý kiến và có nguyện vọng được tiếp tục sống với cha, không yêu cầu gì với bà T.
Chứng cứ thu thập được:
Ông Đặng Xuân L - cha ruột của ông H cho biết nguyên nhân ông H xin ly hôn với bà T là do mâu thuẫn trầm trọng trong đời sống vợ chồng. Cụ thể ông H do kinh tế gia đình khó khăn nên đi làm ăn xa có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, gia đình có khuyên ngăn, hàn gắn ông, bà tiếp tục chung sống với nhau được một thời gian thì tiếp tục phát sinh mâu thuẫn, bà T không đồng ý chung sống. Từ đó, gia đình để ông bà tự giải quyết với nhau, không có ý kiến.
Tại phiên tòa hôm nay ông H vắng mặt nhưng có đơn xin vắng mặt, riêng bà T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng bà vẫn vắng mặt nên HĐXX xét xử vắng mặt ông bà theo thủ tục chung.
Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong việc thu thập chứng cứ, xác định tư cách của những người tham gia tố tụng là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa, thời hạn xét xử cũng như thủ tục xét xử được đảm bảo. Về nội dung giải quyết vụ án, xét thấy yêu cầu ly hôn của ông H là có căn cứ, về con chung nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định về tâm sinh lý cũng như nguyện vọng của con chung nên để ông H cùng gia đình tiếp tục chăm sóc, công nhận tự nguyện của ông H không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Ông H xin ly hôn với bà T. Bà T hiện đang cư trú tại huyện A, tỉnh An Giang. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1, Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh An Giang.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa ông H và bà T có đăng ký kết hôn tại xã P, huyện A, tỉnh An Giang vào năm 2011 nên phát sinh trách nhiệm pháp lý, phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên nên được pháp luật bảo vệ.
Xét yêu cầu của ông H xin được ly hôn với bà T, HĐXX xét thấy:
Ông H và bà T có thời gian tự tìm hiểu tiến đến hôn nhân tự nguyện, trong quá trình chung sống nhiều lần ông bà xảy ra mâu thuẫn nhưng được gia đình hàn gắn. Đáng lẽ ra sau khi được hàn gắn ông bà phải nhận ra được nguyên nhân mâu thuẫn rồi từ đó cùng nhau xây dựng, chăm sóc, tạo dựng gia đình hạnh phúc nhưng ngược lại mâu thuẫn ông bà ngày một trầm trọng. Nguyên nhân được ông H và gia đình thừa nhận là do bản thân ông H có tình cảm với người phụ nữ khác, ông H được gia đình khuyên ngăn đã thay đổi nhưng bà T không tha thứ, ly thân nhiều năm nay nhận thấy không thể tiếp tục chung sống nên yêu cầu được ly hôn.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án tổ chức hòa giải nhưng bà T vắng mặt, từ đó thấy được hôn nhân của ông bà đã không còn tiếng nói chung, không có trách nhiệm và quan tâm đến việc xây dựng gia đình hạnh phúc cho các con. Xét thấy mâu thuẫn của vợ chồng đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
[3] Về quan hệ con chung: Trong quá trình chung sống 01 con chung tên Đặng Thị Bích N, sinh ngày: 15/6/2006, hiện do ông H cùng gia đình đang chăm sóc.
Xét trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cháu N có nguyện vọng tiếp tục sống với ông H. Do đó, việc giao con chung cho ông H cùng gia đình tiếp tục chăm sóc là phù hợp với nguyện vọng và quy định của pháp luật.
Theo quy định, khi ly hôn bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, ông H không yêu cầu bà Tuyền cấp dưỡng, HĐXX công nhận sự tự nguyện của ông.
Hội đồng xét xử cũng giải thích cho ông H biết: Việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con là không cố định, sẽ có thay đổi khi có yêu cầu chính đáng của một hoặc cả hai bên và trong thời gian nuôi con bà và những người thân trong gia đình phải có nghĩa vụ tạo điều kiện cho bà T đến thăm con chung, không ai cản trở bà T thực hiện quyền này.
[4] Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Ông H khai không có, tuy nhiên bà T vắng mặt nên HĐXX không xem xét. Nếu sau này bà T có chứng cứ khác chứng minh có tài sản chung hoặc nợ chung và bà T có yêu cầu thì Tòa án sẽ xem xét thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật.
[5] Về án phí: Ông H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Các Điều 51, 53, 56, điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Thanh H.
Về quan hệ hôn nhân: Ông Đặng Thanh H được ly hôn với bà Đỗ Thị Bích T.
Về quan hệ con chung: Ông H được tiếp tục nuôi 01 con chung tên Đặng Thị Bích N, sinh ngày: 15/6/2006. Công nhận tự nguyện của ông H không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con chung.
Ông H và những người thân trong gia đình phải tạo điều kiện cho bà T đến thăm con chung, không ai được cản trở bà T thực hiện quyền này.
Việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con không cố định sẽ thay đổi khi có yêu cầu chính đáng của một hoặc cả hai bên.
Về án phí: Ông Đặng Thanh H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm được chuyển từ tiền tạm ứng án phí mà ông H đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A theo biên lai thu số 0011476 ngày 05/8/2019.
Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 120 ngày 07/7/2005 của UBND xã P mang tên ông Đặng Thanh H và bà Đỗ Thị Bích T không còn giá trị pháp lý.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (30/10/2019) các bên có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo của các đương sự vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.
(Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự).
Bản án 430/2019/HNGĐ-ST ngày 30/10/2019 về ly hôn
Số hiệu: | 430/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về