Bản án 431/2019/HNGĐ-ST ngày 30/10/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 431/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/10/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 30 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A. Tòa án nhân dân huyện A, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 308/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 8 năm 2019 về việc“Xin ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 455/2019/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phan Thị Tuấn L, sinh năm: 1988

Cư trú: Khu dân cư B, ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang

Bị đơn: Ông Lê Văn H, sinh năm: 1988

Cư trú: Tổ 19, ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang.

Tại phiên tòa bà L, ông H vắng mặt. Riêng bà L vắng mặt có đơn

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai cùng ngày 01/8/2019 với các tài liệu kèm theo, quá trình tố tụng tại Tòa án bà Phan Thị Tuấn L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông H là do mai mối được hai bên gia đình đồng ý đứng ra tổ chức lễ cưới vào năm 2009, ông bà có đăng ký kết hôn UBND xã P ngày 17/9/2019, sau khi kết hôn ông bà sống tại nhà ông H được một năm thì mâu thuẫn bắt đầu phát sinh. Nguyên nhân là do hai vợ chồng đến với hôn nhân không xuất phát từ tình cảm nên bất đồng trong quan điểm sống, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, không thể hòa hợp tính cách nên không khí gia đình luôn ngột ngạt. Tuy mâu thuẫn đã được gia đình hai bên lên tiếng hàn gắn nhưng ông bà vẫn không tiếp tục chung sống nên quyết định ly thân nhau từ năm 2010. Nay nhận thấy không thể quay về tiếp tục chung sống nên bà xin được ly hôn với ông H.

Về quan hệ con chung, tài sản chung, nợ chung: Ông bà không có.

Chứng cứ thu thập được:

Ông Nguyễn Minh T là anh họ, đồng thời cũng là hàng xóm gần nhà với ông H cho biết nguyên nhân mẫu thuẫn vợ chồng giữa ông H và bà L như thế nào thì ông không rõ. Tuy nhiên, hai ông bà sống chung với nhau được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn, gia đình tiến hành hàn gắn thì được biết ông bà không hòa hợp được tính cách, thường xuyên tranh cãi. Ông bà đã ly thân gần 10 năm nay, gia đình hai bên không ý kiến để ông bà tự giải quyết với nhau.

Tại phiên tòa hôm nay mặc dù đã được tống đạt hợp lệ lần hai nhưng tất cả các đương sự trong vụ án đều vắng mặt, riêng bà L đơn xin vắng mặt. Do đó Hội đồng xét xử xử vắng mặt ông bà theo thủ tục chung.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong việc thu thập chứng cứ, xác định tư cách của những người tham gia tố tụng là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa, thời hạn xét xử cũng như thủ tục xét xử được đảm bảo. Về nội dung giải quyết vụ án, xét thấy yêu cầu ly hôn của bà L là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà L xin được ly hôn với ông H. Ông H hiện đang cư trú tại huyện A, tỉnh An Giang. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1, Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh An Giang.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa bà L và ông H có đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện A, tỉnh An Giang nên phát sinh trách nhiệm pháp lý, phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên nên được pháp luật bảo vệ.

Xét yêu cầu của bà L xin được ly hôn với ông H, HĐXX xét thấy:

Mặc dù Tòa án không trực tiếp làm việc được với ông H và ông cũng không gởi văn bản ý kiến trình bày cho Tòa án. Tuy nhiên, qua làm việc với bà L và chứng cứ thu thập được qua lời trình bày của ông T là người thân và hàng xóm của ông bà, nhận thấy mâu thuẫn của ông, bà là thật sự trầm trọng, nguyên nhân mâu thuẫn là do ông bà không có thời gian tìm hiểu trước hôn nhân, sau khi chung sống mới phát sinh nhiều vấn đề không thể hòa hợp về tính cách lẫn quan điểm sống nên dẫn đến cãi vả, tuy được gia đình hàn gắn nhưng ông bà ly thân nhau gần 10 năm. Nay xét thấy mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, do đó yêu cầu ly hôn của bà L là chính đáng và hoàn toàn có căn cứ để chấp nhận theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về quan hệ con chung: Bà L và ông H không có con chung nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[4] Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Bà L khai không có, tuy nhiên ông H vắng mặt nên HĐXX không xem xét. Nếu sau này ông H có chứng cứ khác chứng minh có tài sản chung và ông H có yêu cầu thì Tòa án sẽ xem xét thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật.

[5] Về án phí: Bà L phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Các Điều 51, 53, 56, của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị Tuấn L.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị Tuấn L được ly hôn với ông Lê Văn H.

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 486 ngày 17/9/2009 của UBND xã P mang tên ông Lê Văn H và bà Phan Thị Tuấn L không còn giá trị pháp lý.

Về án phí: Bà Phan Thị T Liếu phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm (được khấu trừ từ tiền tạm ứng án phí mà bà Liếu đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A theo biên lai thu số 0011478 ngày 05/8/2019).

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (30/10/2019) các bên có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo của các đương sự vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.

(Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 431/2019/HNGĐ-ST ngày 30/10/2019 về ly hôn

Số hiệu:431/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về