Bản án 43/2020/HS-ST ngày 10/06/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH N

BẢN ÁN 43/2020/HS-ST NGÀY 10/06/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 10 tháng 6 năm 2020 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 43/2020/TLST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2020, đối với bị cáo:

NGUYỄN TR, sinh ngày 04 tháng 10 năm 1998 tại tỉnh N. Nơi ĐKNKTT: Khu phố x, phường T, thành phố P, tỉnh N; Nghề nghiệp: thợ cơ khí; Trình độ văn hoá: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn T và bà Trần Th; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo tạm giữ từ ngày 15 tháng 01 năm 2020 theo Biên bản bắt người phạm tội quả tang, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố P.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 40 phút ngày 15/01/2020, thực hiện kế hoạch kiểm tra nồng độ cồn theo Nghị định 100/NĐ - CP của Chính phủ, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Hình sự - Kinh tế - Ma túy phối hợp với Đội Cảnh sát giao thông Công an TP. P tiến hành đo nồng độ cồn tại đường 21 tháng 8, khu vực trước Trường Chính trị, thuộc khu phố z, phường Ph, TP. P. Quá trình kiểm tra đã phát hiện Nguyễn Tr có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy.

Khi bị kiểm tra, Tr đã ném 01 (một) bịch nylon trong suốt, bên trong bịch nylon có chứa tinh thể dạng rắn màu trắng (nghi là ma túy) từ tay trái của Tr xuống đất. Lực lượng công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Tr, đồng thời tiến hành tạm giữ những đồ vật, tài liệu sau:

- 01 (một) bịch nylon được hàn kín, bên trong bịch nylon có chứa những tinh thể dạng rắn, màu trắng (nghi là ma túy đá).

- 01 (một) xe máy hiệu EXCITER – RC, màu đen, biển kiểm soát, 85C1 – 314.xx, số khung RLCUG06105Y6721xx, số máy G3D4E6998xx, không kiểm tra chi tiết bên trong máy, xe cũ đã qua sử dụng.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu O, màu đen, máy cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong máy.

Tại Cơ quan điều tra, Tr khai nhận: 01 (một) bịch nylon trong suốt, bên trong bịch nylon có chứa tinh thế dạng rắn màu trắng là ma túy đá. Vào khoảng 18 giờ 00 phút ngày 15/01/2020, Nguyễn Tr cùng với Dương N (sinh năm 2000, HKTT: Khu phố V, phường T, TP. P, tỉnh N) và Trần V (sinh năm 1996, HKKT: Thôn A, xã X, huyện H, tỉnh N) cùng nhau uống cà phê tại khu vực Ngã năm PH, thuộc phường P.M., TP. P, tỉnh N. Đến khoảng 18 giờ 40 phút cùng ngày, có một người tên thường gọi là Ty (không rõ tên tuổi địa chỉ) dùng Facebook NGUYỄN X gọi vào Facebook T của Dương N qua ứng dụng Messenger và nói cho gặp Tr thì N đưa điện thoại cho Tr nghe máy. Sau đó, Tr cầm điện thoại đi ra ngoài nói chuyện với Ty, Ty nhờ Tr đi đến khu vực Bệnh viện Đa khoa tỉnh N để lấy ma túy rồi giao cho một nam thanh niên ở khu vực Cầu M, Tr đồng ý. Do không có điện thoại nên Tr mượn điện thoại di động hiệu O, màu đen của Thanh, đồng thời mượn xe mô tô hiệu EXCITER – RC, màu đen, biển kiểm soát, 85C1 – 314.xxz của V để làm phương tiện đi gặp Ty. Khi đến khu vực bệnh viện, Tr gặp Ty và lấy 01 bịch ma túy rồi chạy lên khu vực Cầu M để giao cho người thanh niên kia. Khi Tr đi đến khu vực trước Trường Chính trị tỉnh N trên đường 21 tháng 8 thì bị lực lượng công an bắt quả tang và đưa về trụ sở làm việc. Tiến hành test nhanh ma túy đối với Nguyễn Trcho kết quả dương tính với ma túy đá.

Tại Bản kết luận giám định số 38/KLGĐ ngày 17/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: “Chất tinh thể màu trắng, dạng rắn trong 01 (một) bch ni lon trong suốt được hàn kín (ký hiệu M) là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng: 1,0395g (Một phẩy không ba chín năm gam).” Cáo trạng số 46/QĐ-VKSPR ngày 27/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố bị cáo Nguyễn Tr về “tội vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 250 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Trần Đình Khnag 02 năm đến 03 năm tù về “tội vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 250, điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không tranh luận. Khi nói lời sau cùng, bị cáo trình bày đã ăn năn hối cải về hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tr thừa nhận: Khoảng 18 giờ ngày 15/01/2020, Tr bị lực lượng công an phát hiện bắt giữ tại khu vực trước Trường Chính trị tỉnh N trên đường 21 tháng 8 khi đang vận chuyển 01 bịch ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 1,0395g. Lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, cáo trạng số 46/QĐ- VKSPR ngày 27/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố bị cáo về “tội vận chuyển trái phép chất ma túy”theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 250 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý Nhà nước đối với chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, cần phải xử lý nghiêm khắc.

[3] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự do bị cáo có nhân thân tốt, đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ này quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Vật chứng của vụ án:

- 0,8840 g chất ma túy, loại Methamphetamine là mẫu vật còn lại sau giám định. Hội đồng xét xử xét thấy nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

- 01 (một) xe máy hiệu EXCITER – RC, màu đen, biển kiểm soát, 85C1 – 314.xx, số khung RLCUG06105Y6721xx, số máy G3D4E6998xx, không kiểm tra chi tiết bên trong máy, xe cũ đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định, chiếc xe trên do Trần V làm chủ sở hữu. Việc Tr mượn xe của Luân đi đâu, làm gì, V hoàn toàn không biết nên không liên quan đến vụ án. Do đó, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe này cho V là đúng quy định pháp luật.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu O, màu đen, máy cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong máy. Quá trình điều tra xác định đây là điện thoại di động của Dương N. Khi người tên Ty (chưa rõ nhân thân, lai lịch) dùng ứng dụng Facebook gọi vào điện thoại này để gặp Tr và trao đổi về việc vận chuyển ma túy thì N không biết. Do đó, Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản trên cho Dương N là phù hợp.

[5] Đối với người tên Ty, quá trình điều tra, Nguyễn Tr khai nhận 1,0395g chất ma túy, loại Methamphetamine mà Cơ quan điều tra đã tạm giữ của Tr là ma túy của Ty đưa cho Tr. Tuy nhiên, Tr không biết rõ họ tên thật cũng như địa chỉ cụ thể của Ty ở đâu nên Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh làm rõ và đề nghị xử lý sau là phù hợp.

[6] Đối với Dương N, quá trình điều tra xác định: Do Tr không có điện thoại nên vào tối ngày 15/01/2020, Ty gọi cho N thông qua ứng dụng Messenger trên điện thoại là để gặp Tr. Việc Tr và Ty trao đổi như thế nào qua điện thoại, N hoàn toàn không biết, N cũng không biết Tr mượn điện thoại O của mình để đi vận chuyển trái phép chất ma túy. Do đó, Cơ quan điều tra xác định N không liên quan đến vụ án nên không đề nghị xử lý là có cơ sở.

[7] Đối với Trần V, quá trình điều tra xác định: V hoàn toàn không biết việc Tr mượn xe mô tô của minh để đi vận chuyển trái phép chất ma túy. Do đó, Cơ quan điều tra xác định V không liên quan đến vụ án nên không đề nghị xử lý đối với V là có cơ sở.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tr phạm “tội vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 điều 250, điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tr 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15 tháng 01 năm 2020.

Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào: Điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tuyên tịch thu tiêu hủy 0,8840 g chất ma túy, loại Methamphetamine được niêm phong, bên trên gói niêm phong có ghi “mẫu vật còn lại sau giám định theo quyết định trưng cầu số 22 ngày 15/01/2020 của Cơ quan CSĐT Công an thành phố P, tỉnh N”, có chữ ký và họ tên Lê N, Hoàng V, Nguyễn Ngh, Hoàng M, Huỳnh Ng và dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N. Vật chứng hiện do Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố P quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29 tháng 4 năm 2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố P.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt bị cáo. Quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 43/2020/HS-ST ngày 10/06/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về