Bản án 26/2019/HSST ngày 11/04/2019 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 26/2019/HSST NGÀY 11/04/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 21/2019/HSST ngày 15 tháng 3 năm 2019, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 3 năm 2019, đối với bị cáo:

Phạm Thị L, sinh năm 1957, tại Hà Nội; nơi ĐKHKTT: Số 34 Hoàng Hanh, phường Phúc Tân, quận H, TP Hà Nội; chỗ ở hiện nay: Số 110, đường Phạm Ngũ Lão, xã Mỹ Xá, TP N, tỉnh Nam Định ; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Đức T và bà: Phạm Thị B (Đều đã chết); Chồng là Vũ Quang T (đã ly hôn); có 01 con;

Tiền sự: Không;

Tiền án: Ngày 01/6/1996, TAND quận Tây Hồ, TP Hà Nội xử phạt 42 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tổ chức dùng chất ma túy”. Ngày 21/8/1996, TAND TP Hà Nội xử phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm; Đến nay chưa thi hành án phí hình sự sở thẩm, án phí hình sự phúc thẩm, các khoản tiền phạt, truy thu sung quỹ Nhà nước. Ngày 29/3/2001, TAND quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Ngày 18/5/2001, TAND TP Hà Nội xử phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm; Đến nay chưa thi hành án phí hình sự sơ thẩm, án phí hình sự phúc thẩm, khoản truy nộp sung quỹ Nhà nước.

Nhân thân: Ngày 18/8/2006, TAND quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội xử phạt 08 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Ra trại ngày 17/6/2013.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19-12-2018 đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến:

+ Bà Trần Thị Kh, sinh năm 1960

+ Ông Lâm Thanh Q, sinh năm 1950

Đều có địa chỉ: Xóm Lâm Hoan, xã Gi, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.

+ Ông Trương Văn H, sinh năm 1961

Địa chỉ: Thôn Phúc Trọng, xã Mỹ Xá, TP N, tỉnh Nam Định.

+ Chị Vũ Ngọc A, sinh năm 1981

Địa chỉ: Số 110, đường Phạm Ngũ Lão, xã Mỹ Xá, TP N, tỉnh Nam Định.

Tại phiên tòa: Người chứng kiến đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 08h30 ngày 19/12/2018, tổ tuần tra Đồn biên phòng Quất Lâm - BĐBP tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực chợ Bến thuộc xóm Lâm Hoan, xã Giao Phong, huyện Giao Thủy phát hiện Phạm Thị L điều khiển xe máy BKS: 18B1-26436 có biểu hiện nghi vấn (cất giấu trái phép chất ma túy). Tổ tuần tra yêu cầu kiểm tra hành chính đối với Phạm Thị L. Quá trình kiểm tra, Phạm Thị L tự giác lấy từ trong túi áo khoác đang mặc ra 01 phong bì thư bên trong có 03 gói nilong màu trắng bên trong đều chứa chất bột dạng cục màu trắng giao nộp cho tổ tuần tra (được niêm phong ký hiệu M). Phạm Thị L khai đó là 03 gói heroine L nhận vận chuyển thuê cho người phụ nữ tên T (T đưa ma túy cho một người phụ nữ khác giao cho L) từ TP Nam Định về giao cho một người phụ nữ không biết tên, tuổi, địa chỉ bán vàng mã ở chợ Bến xã Giao Phong, huyện Giao Thủy để lấy 300.000đ tiền công nhưng chưa kịp giao ma túy thì bị phát hiện bắt giữ. Ngoài ra, tổ tuần tra còn thu giữ của Phạm Thị L 01 xe máy BKS: 18B1-26436 đã qua sử dụng. Tổ tuần tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định. Ngày 19/12/2018, Đồn biên phòng Quất Lâm đã đưa các gói chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Phạm Thị L đi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 1142/GĐKTHS ngày 19/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mu bột dạng cục màu trắng trong 03 (ba) gói nilong màu trắng được niêm phong ký hiệu M gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy: heroine. Tổng khối lượng mẫu M: 10,277 gam.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Giao Thủy Phạm Thị L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 20/CT-VKS ngày12/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định đã truy tố Phạm Thị L về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm h, p khoản 2 Điều 250 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên sau khi xem xét, phân tích đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo giữ nguyên quan điểm như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Thị L phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Áp dụng điểm h, p khoản 2 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt Phạm Thị L từ 09 năm đến 10 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số Heroin hoàn trả mẫu vật sau giám định.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, bị cáo được nói lời sau cùng, bị cáo trình bày bản thân nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về cùng gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Phạm Thị L đã có hành vi vận chuyển 01 phong bì thư bị cáo khai trong phong bì có 03 gói nilong chứa Heroin. Tại bản kết luận số 1142/GĐKTHS ngày 19/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận “Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 03 (ba) gói nilong màu trắng được niêm phong ký hiệu M gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy: heroine. Tổng khối lượng mẫu M: 10,277 gam.” Do đó bị cáo đã phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy ”.

Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có 2 tiền án chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này là tái phạm nguy hiểm, bị cáo phải chịu tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy truy tố bị cáo về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h, p khoản 2 Điều 250 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an tại địa phương. Để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, cần phải xử phạt bị cáo nghiêm minh mới đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt, HĐXX xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với bị cáo như sau:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người cao tuổi. Do đó cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn, buộc bị cáo phải tập trung cải tạo một thời gian nhất định đủ để khi trở về cộng đồng là công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 250 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng ... tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo kinh tế khó khăn, là người cao tuổi. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Số heroin vật chứng của vụ án được hoàn trả sau giám định, áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu cho tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ điểm h, p khoản 2 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Phạm Thị L phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Phạm Thị L 10 (mười) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 19-12-2018.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu cho tiêu huỷ toàn bộ số heroin mẫu vật hoàn trả sau giám định (được ghi chi tiết tại biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 12-3-2019 giữa Công an huyện Giao Thủy và Chi cục thi hành án dân sự huyện Giao Thủy).

3. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Phạm Thị L phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HSST ngày 11/04/2019 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về