Bản án 43/2019/HSST ngày 18/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ ĐỒN, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 43/2019/HSST NGÀY 18/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 18 tháng 11 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 45/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

LÝ THÁI H - Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 17/7/1990 tại huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn N, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Thái T và con bà Ma Thị K; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: 02. Ngày 18/8/2009 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn tuyên phạt giữ nguyên mức án 54 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” như bản án hình sự sơ thẩm số: 19/2009/HSST ngày 24/6/2009 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn đã tuyên (Theo bản án hình sự phúc thẩm số 35/2009/HSPT); Ngày 17/6/2014 bị Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Nguyên tuyên phạt 54 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” (Theo bản án hình sự sơ thẩm số 365/2014/HSST) đến ngày 24/01/2018 thì chấp hành án xong trở về địa phương. Đến nay chưa được xóa án tích; nhân thân: Ngày 31/8/2007 bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Bắc Kạn tuyên phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 104/BLHS năm 1999 (Theo bản án hình sự sơ thẩm số 15/HSST/2007) - Hiện tại đã được xóa án tích theo điểm b khoản 1 Điều 107/ BLHS năm 2015.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/7/2019 cho đến nay. Hiện tại bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Kạn theo Lệnh tạm giam số 10 ngày 06/8/2019 của Cơ quan CSĐT Công an huyện C, tỉnh Bắc Kạn, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 11 giờ 00 phút ngày 31/7/2019, tại khu vực thôn B, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn, tổ công tác điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Chợ Đồn đang làm nhiệm vụ đã phát hiện và bắt quả tang Lý Thái H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữ bao gồm: 01 (một) gói tinh thể màu trắng đựng trong túi nilon màu trắng, miệng túi có viền màu xanh, bên ngoài gói bằng túi nilon màu trắng và đựng trong túi nilon có nhiều hoa văn khác nhau, trên túi nilon có chữ “Toothbrush” và chữ “Bàn chải” khi Lý Thái H đang cầm trong lòng bàn tay phải (Niêm phong trong phong bì ký hiệu H1).

Ti biên bản mở niêm phong và cân xác định khối lượng hồi 12 giờ 15 phút ngày 31/7/2019 xác định: Phong bì niêm phong ký hiệu H1, bên trong có 01 (một) gói tinh thể màu trắng đựng trong túi nilon màu trắng, miệng túi có viền màu xanh, bên ngoài gói bằng túi nilon màu trắng và đựng trong túi nilon có nhiều hoa văn khác nhau, trên túi nilon có chữ “Toothbrush” và chữ “Bàn chải”. Cân riêng số tinh thể màu trắng có khối lượng 2,23g (Hai phẩy hai ba gam), niêm phong trong 01 phong bì mới gửi giám định ký hiệu H2.

Ti Bản kết luận giám định số 121/KTHS-MT ngày 02/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: “Mẫu chất màu trắng dạng tinh thể trong phong bì ký hiệu H2 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 2,230g (Hai phẩy hai ba không gam).

Quá trình điều tra, truy tố Lý Thái H khai nhận: 01 (một) gói nhỏ ma túy mà Cơ quan Công an thu giữ khi bắt quả tang là ma túy đá do H mua về để sử dụng cá nhân. Cụ thể, khoảng 21 giờ ngày 29/7/2019 tại khu vực ngã tư Bưu điện huyện C, Lý Thái H gặp 01 người đàn ông khoảng 30 tuổi tên D nhà ở tỉnh Th (Không rõ họ tên đệm và địa chỉ cụ thể) mà H quen từ trước. Tại đây D rủ H đi xuống tỉnh T chơi và Hữu đồng ý. Sau đó Hữu điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave alpha màu xanh biển kiểm soát 97F4-2623 của H và D điều khiển mô tô nhãn hiệu Sirius (Không rõ biển kiểm soát) đi tỉnh T. Khi đi đến khu vực cây xăng Đ (Đã bỏ hoang, không có ai trông coi) thuộc thôn B, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn thì H để xe của H vào khu vực cây xăng và đi theo xe D xuống tỉnh T. Đến khoảng 01 giờ ngày 30/7/2019 khi đi đến khu vực ngã ba M thuộc thành phố T, tỉnh Thái Nguyên thì D bảo H xuống xe và chờ D để D đi mua ma túy đá về sử dụng. Khoảng 20 phút sau D quay lại và cùng H vào 01 ngôi nhà bỏ hoang gần đó rồi cùng nhau sử dụng số ma túy đã D mua được và ở đó đến khoảng 05 giờ 30 phút cùng ngày thì H đưa cho D 01 chiếc điện thoại di động của mình để nhờ D bán lấy tiền mua ma túy đá (Methamphetamine) cho H để sử dụng, D đồng ý rồi cầm điện thoại của H đi, một lúc sau thì D quay lại đưa cho H số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) và 01 gói nhỏ ma túy đá (Methamphetamine) mà D mua được với giá 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng). Sau đó D đi đâu, làm gì thì H không biết, còn H sau khi được D mua cho ma túy đá thì tiếp tục ở lại thành phố T chơi và thuê nhà nghỉ ngủ lại. Đến sáng ngày 31/7/2019 thì H mang theo gói ma túy đá trên rồi bắt xe khách để đi về nhà. Khi xe khách đi đến khu vực thôn B, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn thì H xuống xe và bị Cơ quan Công an bắt quả tang, thu giữ toàn bộ số ma túy trên.

Ti bản cáo trạng số: 42/CT- VKSCĐ ngày 28/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Ti điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

c) Methamphetamine…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

o) Tái phạm nguy hiểm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm cáo trạng đã truy tố.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bị cáo H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 05 đến 06 năm tù.

Hình phạt bổ sung (phạt tiền): Không phạt tiền đối với bị cáo.

Vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu hủy 01 phong bì ký hiệu H3 đã được niêm phong dán kín, trên phong bì có ghi “Vỏ phong bì ký hiệu H1 và giấy gói ban đầu của Lý Thái H” bên trong có chứa phong bì niêm phong ban đầu ký hiệu H1 và giấy gói ban đầu; 01 phong bì ký hiệu T121 đã được niêm phong dán kín trên phong bì có ghi “Vụ: Lý Thái H (1990) tàng trữ trái phép chất ma túy” bên trong có phong bì ký hiệu H2 chứa 2,190g (Hai phẩy một chín mươi gam) chất ma túy còn lại (Methamphetamine) và bao bì, bao gói cũ niêm phong.

Án phí: Áp dụng Điều 135 Điều 136/BLTTHS; quy định về trách nhiệm chi trả chi phí tố tụng, lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000,đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chợ Đồn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Hồi 11 giờ 00 phút ngày 31/7/2019, tại khu vực thôn B, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn, tổ công tác điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Chợ Đồn đang làm nhiệm vụ đã phát hiện và bắt quả tang bị cáo H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng là 2,230g (Hai phẩy hai ba không gam). Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với kết luận giám định là chất ma tuý (loại Methamphetamine) và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vì bị cáo nghiện chất ma túy để thoả mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo vẫn thực hiện. Trước đó, ngày 17/6/2014 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Nguyên tuyên phạt 54 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” (Theo bản án hình sự sơ thẩm số 365/2014/HSST) đến ngày 24/01/2018 thì chấp hành án xong trở về địa phương. Đến nay chưa được xóa án tích, nay bị cáo lại phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, vì vậy thuộc trường hợp Tái phạm nguy hiểm. Hội đồng xét xử xét có đủ căn cứ xác định việc truy tố, xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Xét tính chất, hành vi bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự ở địa phương. Cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Hi đồng xét xử xem xét tính chất, mức độ của hành vi, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp với bị cáo và đúng quy định của pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo H không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự và được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đó là “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” và 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đó là bị cáo có bố đẻ là ông Lý Thái T được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng huy chương.

Hình phạt bổ sung (phạt tiền): Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Do đó Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đi với người đàn ông khoảng 30 tuổi tên D nhà ở tỉnh Th (Không rõ họ tên đệm và địa chỉ cụ thể) là người đã mua ma túy đá cùng H sử dụng và giúp H mua số ma túy Methamphetamine vào ngày 30/7/2019 tại thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. Kết thúc điều tra Lý Thái H không cung cấp được họ, tên đệm và địa chỉ cụ thể. Nên Cơ quan điều tra sẽ tách hồ sơ để xem xét, xử lý sau.

[3]. Xét về vật chứng:

- 01 phong bì ký hiệu H3 đã được niêm phong dán kín, trên phong bì có ghi “Vỏ phong bì ký hiệu H1 và giấy gói ban đầu của Lý Thái H” bên trong có chứa phong bì niêm phong ban đầu ký hiệu H1 và giấy gói ban đầu; 01 phong bì ký hiệu T121 đã được niêm phong dán kín trên phong bì có ghi “Vụ: Lý Thái H (1990) tàng trữ trái phép chất ma túy” bên trong có phong bì ký hiệu H2 chứa 2,190g (Hai phẩy một chín mươi gam) chất ma túy còn lại (Methamphetamine) và bao bì, bao gói cũ niêm phong- xác định là vật cấm lưu hành.

[4]. Xét về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố bị cáo Lý Thái H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"

[1]. Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lý Thái H 07 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày 31/7/2019.

Hình phạt bổ sung (phạt tiền): Không phạt tiền đối với bị cáo.

[2]. Về vật chứng: Áp dụng Điều 46 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu hủy 01 phong bì ký hiệu H3 đã được niêm phong dán kín, trên phong bì có ghi “Vỏ phong bì ký hiệu H1 và giấy gói ban đầu của Lý Thái H” bên trong có chứa phong bì niêm phong ban đầu ký hiệu H1 và giấy gói ban đầu; 01 phong bì ký hiệu T121 đã được niêm phong dán kín trên phong bì có ghi “Vụ: Lý Thái H (1990) tàng trữ trái phép chất ma túy” bên trong có phong bì ký hiệu H2 chứa 2,190g (Hai phẩy một chín mươi gam) chất ma túy còn lại (Methamphetamine) và bao bì, bao gói cũ niêm phong. Tất cả số vật chứng (Số lượng, tình trạng và ký hiệu theo biên bản giao nhận giữa Công an huyện C và Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Bắc Kạn)

[3]. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Điều 136/BLTTHS; quy định về trách nhiệm chi trả chi phí tố tụng, lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000,đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

" Trong trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời” .

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2019/HSST ngày 18/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Đồn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về