Bản án 42/2021/HNGĐ-ST ngày 14/05/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHỤNG HIỆP - TỈNH HẬU GIANG

 BẢN ÁN 42/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/05/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 14 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 106/2021/TLST- HNGĐ, ngày 15 tháng 3 năm 2021 về việc “ Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2021/QĐXXST-HN, ngày 19 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Võ Hồng T (Võ Thị T), sinh năm 1985.

Địa chỉ: ấp A, xã P, huyện H, tỉnh Hậu Giang.

2. Bị đơn: Hoàng C, sinh năm 1979.

Địa chỉ: ấp A, xã P, huyện H, tỉnh Hậu Giang. Các đương sự có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn Võ Hồng T (Võ Thị T) (sau đây gọi chị T) trình bày: giữa chị và bị đơn Lư Hoàng C (sau đây gọi anh C) qua tìm hiểu nhau và tự nguyện quyết định đi đến hôn nhân vào năm 2008, có đăng ký kết hôn. Trong quá trình sống thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên hay cãi vã nhau, nhiều lần hòa giải hàn gắn tình cảm nhưng vẫn không đoàn tụ được, chúng tôi đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2020.

Do cuộc sống chung không hạnh phúc, chị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

-Về hôn nhân: xin ly hôn với anh C.

-Về con chung: có hai người con tên Lư Hoàng L (nam), sinh ngày 10 tháng 9 năm 2009 và cháu Lư Đăng K (nam), sinh ngày 07 tháng 10 năm 2014, từ khi ly thân thì cháu L sống với tôi, cháu K sống với chồng tôi, khi ly hôn, tôi yêu cầu nuôi cả hai con, chưa yêu cầu cấp dưỡng.

-Về nợ và tài sản chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Quá trình tố tụng bị đơn Lư Hoàng C thừa nhận lời trình bày của nguyên đơn về quan hệ hôn nhân, thời gian ly thân, con chung. Về nguyên nhân mẫu thuẫn anh cho rằng do vợ anh tự bỏ nhà đi không lý do nên vợ chồng hay cãi vã nhau, do còn thương vợ con nên anh chưa đồng ý ly hôn.

Giả sử phải ly hôn, anh yêu cầu được nuôi cả hai con, chưa yêu cầu cấp dưỡng. Về nợ và tài sản chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Tại biên bản hòa giải ngày 19 tháng 4 năm 2021, cháu Lư Hoàng L trình bày (có sự chứng kiến của anh C, chị T) : khi cha mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng sống với mẹ.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: về thủ tục tố tụng: Tòa án, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn: cho ly hôn; giao cháu L cho nguyên đơn nuôi, giao cháu K cho bị đơn nuôi, chưa ai phải cấp dưỡng; về nợ và tài sản chung, không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tranh chấp giữa các đương sự là Ly hôn tranh chấp về nuôi con được qui định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

[2] Xét về quan hệ hôn nhân: chị T và anh C qua tìm hiểu nhau, tự nguyện tiến tới đời sống hôn nhân vào năm 2008, đến ngày 20 tháng 5 năm 2011cos đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phương Phú, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp và được pháp luật thừa nhận.

[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị T: chị và anh C trong thời gian chung sống có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống nhưng không tìm được giải pháp khắc phục để hoà giải hàn gắn tình cảm mà chọn cách sống ly thân, trong thời gian ly thân thì tự ai người đó sống, không ai quan tâm lo lắng cho ai. Trong quá trình giải quyết, anh C chưa đồng ý ly hôn nhưng không đưa ra được giải pháp để đoàn tụ. Trong khi đó, tại phiên tòa hôm nay chị T xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh C và cương quyết xin ly hôn; từ đó thấy rằng hôn nhân giữa hai người đã thật sự lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình có cơ sở chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T.

[4] Về con chung: có hai người con chung, anh chị có tranh chấp về quyền nuôi con. Xét cả anh và chị đều có tình cảm thiêng liêng giành cho con, cả hai đều có đủ điều kiện nuôi con chung. Tuy nhiên, xét cháu L, từ khi ly thân đến nay cháu sống với chị T, cháu có nguyện vọng được sống với mẹ. Theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân gia đình: Nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên, khi giao cho ai nuôi cần xem xét đến nguyện vọng của con, nên cần tiếp tục giao cháu L cho chị T nuôi. Đối với cháu K, từ khi ly thân đến nay, cháu sống với anh Cung, anh Cung có nguyện vọng nuôi cháu, xét anh Cung cũng đủ điều kiện nuôi cháu. Qua phân tích thực tế, nhằm tránh gây xáo trộn đời sống của cháu, để cháu được phát triển bình thường như bao đứa trẻ khác, đồng thời nhằm giảm bớt gánh nặng chi phí nuôi con cho chị T, cần tiếp tục giao cháu K cho anh C nuôi dưỡng là phù hợp và nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc khi chị T, anh C có yêu cầu khác.

[5] Về nghĩa vụ cấp dưỡng: chưa ai yêu cầu cấp dưỡng nên không đặt ra xem xét. Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho anh C và chị T mà không ai có quyền cản trở.

[6] Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu nên không xem xét.

[7] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: nguyên đơn phải nộp theo quy định pháp luật.

Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa có căn cứ chấp nhận. Các đương sự được quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147 Bộ Luật Tố tụng dân sự. Các Điều 51, 53, 55, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Võ Hồng T (Võ Thị T) và anh Lư Hoàng C.

2. Về nuôi con chung: giao cháu Lư Hoàng L (nam), sinh ngày 10 tháng 9 năm 2009 cho chị Võ Hồng T (Võ Thị T) được trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc khi anh Cung, chị Tươi có yêu cầu khác.

Giao cháu Lư Đăng K (nam), sinh ngày 07 tháng 10 năm 2014 cho anh Lư Hoàng C được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc khi anh C, chị T có yêu cầu khác.

Chưa ai phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho chị Võ Hồng T (Võ Thị T) và anh Lư Hoàng C mà không ai có quyền cản trở.

3. Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu, không xem xét

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: chị Võ Hồng T (Võ Thị T) phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ từ 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0008688, ngày 15 tháng 3 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang thành án phí, không phải nộp thêm.

Trường hợp quyết định này được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 42/2021/HNGĐ-ST ngày 14/05/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:42/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phụng Hiệp - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về