Bản án 42/2019/HS-ST ngày 25/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 42/2019/HS-ST NGÀY 25/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 35/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Minh V sinh năm 1993 tại NQ – Ninh Bình. Nơi cư trú: Thôn XQ, xã QL, huyện NQ, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị T; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 07/12/2018, đến ngày 13/12/2018 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay. “Có mặt”.

2. Trương Hoàng T sinh năm 1993 tại NQ – Ninh Bình. Nơi cư trú: Thôn XQ, xã QL, huyện NQ, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Văn S và bà Đinh Thị N; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 07/12/2018, đến ngày 13/12/2018 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay. “Có mặt”.

- Người làm chứng: Ông Đàm Xuân H, anh Lê Minh N “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trương Hoàng T, Nguyễn Minh V đều là người nghiện ma túy. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 07/12/2018, T và V đang ở phòng trọ của T thuê tại xã GT, huyện GV, tỉnh Ninh Bình, do có nhu cầu sử dụng ma túy đá nên T rủ V góp tiền mua ma túy về sử dụng, V đồng ý. T liền đưa cho V 200.000 đồng, V cầm tiền rồi gọi điện thoại đến số 0986.477.552 của một người phụ nữ tên là H hỏi mua 400.000 đồng ma túy đá. H đồng ý và hẹn V đến khu vực cổng ga tàu mới ở thành phố Ninh Bình để lấy ma túy. V lấy xe mô tô hiệu Yamaha Exiter biển kiểm soát 35G1- 030.69 đưa cho T điều khiển đi đến chỗ H hẹn lấy ma túy. Đến khoảng hơn 12 giờ cùng ngày, cả hai đi đến trước khu vực cổng ga tàu ở đường NGT, phố NH, phường NB, thành phố Ninh Bình, V gọi điện thoại cho H nói đã đến nơi rồi. Một lúc sau, H đi đến chỗ V và T, do đã trao đổi với nhau từ trước đó nên V đưa cho H số tiền 400.000 đồng, H cầm tiền rồi bảo V đi đến chỗ bốt điện cách vị trí ba người đang đứng khoảng 50m để lấy ma túy do H đã để sẵn trên bao thuốc lá đặt ở dưới đất cạnh bốt điện. T điều khiển xe chở V đi đến đứng đối diện (bên kia đường) với bốt điện rồi V xuống xe đi bộ sang đường đến chỗ bốt điện, quan sát thấy bên dưới có 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên ngoài có dính 01 túi nilon màu trắng. Biết đó là ma túy do H để sẵn ở đó nên V dùng tay trái nhặt bao thuốc lá lên rồi tiến về phía T đang chờ để đi tìm chỗ cùng nhau sử dụng thì gặp Tổ công tác Công an phường NB, thành phố Ninh Bình đang làm nhiệm vụ. Do sợ hãi V đã vất vỏ bao thuốc lá có dính gói ma túy từ tay trái xuống mặt đường, Tổ công tác yêu cầu V nhặt lên kiểm tra phát hiện bên ngoài vỏ bao thuốc lá có dính 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (3x3) cm. Mở túi nilon này ra thấy có 02 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (1x1) cm, bên trong hai túi nilon đều chứa chất dạng tinh thể màu trắng. Cả T và V đều khai nhận đó là ma túy đá do hai người góp tiền cùng nhau mua về để sử dụng. Tổ công tác đã niêm phong 02 túi ma túy và vỏ bao thuốc lá vào phong bì thư theo quy định của pháp luật rồi đưa T, V cùng tang vật và mời người chứng kiến về trụ sở Công an phường NB lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Ngoài ra còn thu giữ của V 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exiter đeo biển kiểm soát 35G1- 030.69, 01 điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy J7, 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Minh V; thu giữ của T 01 điện thoại di động hiệu Xperia, 01 điện thoại di động hiệu Sony Xperia.

Quá trình điều tra vụ án, các bị can Nguyễn Minh V, Trương Hoàng T đều đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Tiến hành cân xác định trọng lượng chất dạng tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Minh V và Trương Hoàng T, kết quả: Gói thứ nhất có trọng lượng 0,240 gam ký hiệu M1; Gói thứ hai có trọng lượng 0,1 gam ký hiệu M2. Gửi các mẫu M1, M2 để giám định xác định loại ma túy và khối lượng chất ma túy.

Tại Kết luận giám định số 35/KLGĐ - PC09 - MT ngày 10/12/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,2249 gam; M2 có khối lượng 0,0945 gam. Tổng khối lượng chất dạng tinh thể màu trắng trong hai mẫu ký hiệu M1, M2 là 0,3194 gam. Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng gửi giám định ký hiệu M1, M2 đều là ma túy, loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 39/CT-VKS ngày 20/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố Nguyễn Minh V, Trương Hoàng T ra trước Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên quyết định như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Minh V, Trương Hoàng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh V, Trương Hoàng T mỗi bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 07/12/2018.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự ; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội .

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư dán kín, niêm phong mẫu vật hoàn trả số 35/KLGĐ-PC09-MT; 01 phong bì thư dán kín, niêm phong bên ngoài ghi dòng chữ túi nilon màu trắng, 02 túi nilon màu trắng và phong bì niêm phong ban đầu thu giữ của Nguyễn Minh V và Trương Hoàng T ngày 07/12/2018, ký hiệu là B; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng được niêm phong trong phong bị thư;

- Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại Samsung màu đen thu của Nguyễn Minh V sử dụng liên lạc mua ma túy.

- Trả lại cho Nguyễn Minh V 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Minh V; trả lại cho Trương Hoàng T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xperia màu đen, 01 chiếc điện thoại di động Sony Xperia.

Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Ninh Bình, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Ninh Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Ti phiên toà, các bị cáo Nguyễn Minh V và Trương Hoàng T đã khai nhận: Trưa ngày 07/12/2018, T và V đang ở phòng trọ tại xã GT, huyện GV, tỉnh Ninh Bình, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên T rủ V góp tiền mua ma túy về sử dụng, V đồng ý. T liền đưa cho V 200.000 đồng, V cầm tiền rồi gọi điện thoại cho người phụ nữ tên là H hỏi mua 400.000 đồng ma túy đá, H đồng ý. V lấy xe mô tô hiệu Yamaha Exiter biển kiểm soát 35G1- 030.69 đưa cho T điều khiển đi đến chỗ H hẹn lấy ma túy. Đến khoảng hơn 12 giờ cùng ngày, cả hai đi đến trước khu vực cổng ga tàu ở đường NGT, phố NH, phường NB, thành phố Ninh Bình, V đưa cho H số tiền 400.000 đồng, H cầm tiền rồi bảo V đi đến chỗ bốt điện cách vị trí ba người đang đứng khoảng 50m để lấy ma túy do H đã để sẵn trên bao thuốc lá đặt ở dưới đất cạnh bốt điện. T điều khiển xe chở V đi đến đứng đối diện (bên kia đường) với bốt điện rồi V xuống xe đi bộ sang đường đến chỗ bốt điện, quan sát thấy bên dưới có 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên ngoài có dính 01 túi nilon màu trắng. Biết đó là ma túy do H để sẵn ở đó nên V nhặt bao thuốc lá lên rồi đi về phía T đang chờ để đi tìm chỗ cùng nhau sử dụng thì bị Công an phát hiện, bắt giữ. Hành vi phạm tội của các bị cáo như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản cân xác định khối lượng, vật chứng thu giữ, bản kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 07/12/2018, tại khu vực đường NGT thuộc phố NH, phường NB, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, Nguyễn Minh V và Trương Hoàng T có hành vi cất giấu trái phép 0,3194 gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân bị phát hiện bắt giữ. Hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố các bị cáo Nguyễn Minh V và Trương Hoàng T với tội danh và khung hình phạt nêu trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, không những đã xâm phạm trực tiếp tới sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý mà còn gây mất ổn định trật tự trị an, an toàn xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Các bị cáo khai biết rõ tác hại của ma tuý và sự nghiêm trị của pháp luật đối với những hành vi trái phép liên quan đến ma tuý. Tuy nhiên, vì muốn thoả mãn ý thích cá nhân, các bị cáo cố tình góp tiền mua ma túy để sử dụng dẫn đến phạm tội.

Trong vụ án có hai bị cáo tham gia, xong không mang tính chất tổ chức, mà đồng phạm tính chất giản đơn, vai trò của hai bị cáo là như nhau.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự và cần có hình phạt đối với các bị cáo như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát. Cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian. Như vậy, mới có tác dụng trực tiếp giáo dục, cải tạo các bị cáo từ bỏ ma tuý, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, sống có ích cho gia đình và xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng, không nhằm mục đích trục lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[3] Về nguồn gốc ma túy: Trương Hoàng T và Nguyễn Minh V khai mua của một người phụ nữ tên là H sử dụng số điện thoại 0986.477.552 nhưng không biết địa chỉ của H ở đâu. Quá trình điều tra xác định số điện thoại trên do chị Phạm Thị Thu T sinh năm 1999, trú tại tổ T, phường TB, thành phố Tam Điệp đứng tên đăng ký sử dụng nhưng sau đó chị T bị mất điện thoại. Hiện tại, chị T không biết ai là người sử dụng số điện thoại đó. Chị T không quen biết Nguyễn Minh V, Trương Hoàng T, ngày 07/12/2018 chị T không bán ma túy cho họ. Tiến hành cho V và T nhận dạng qua ảnh, xác định chị T không phải là người bán ma túy cho V và T. Với tài liệu điều tra thu thập được không có căn cứ để xác định chị T sử dụng số điện thoại 0986.477.552 để liên lạc mua bán trao đổi ma túy với V ngày 07/12/2018 nên không có cơ sở điều tra xác minh, xử lý .

[4] Về xử lý vật chứng và tài sản đã tạm giữ:

- Đi với chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter đeo biển kiểm soát 35G1-030.69 thu giữ của Nguyễn Minh V, quá trình điều tra xác định chiếc xe trên được đăng ký chủ sở hữu là anh Trương Đình D, sinh năm 1992, trú tại xóm N làng L, xã NL, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Ngày 25/5/2018, anh D đi làm tại xã PL, huyện SS, thành phố Hà Nội bị mất trộm chiếc xe trên nên đã đến Công an huyện SS trình báo. Còn Nguyễn Minh V khai nhận chiếc xe mô tô nói trên là do V mua của một người thanh niên không quen biết vào tháng 6 năm 2018 tại huyện SS, thành phố Hà Nội với giá 17.000.000 đồng, V không biết đây là xe do trộm cắp mà có. Do chiếc xe mô tô này là vật chứng liên quan đến vụ việc trộm cắp tài sản do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện SS, thành phố Hà Nội đang thụ lý nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã tách phần tài liệu có liên quan chuyển đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện SS, thành phố Hà Nội để tiếp tục điều tra giải quyết là có căn cứ, đúng pháp luật.

- 01 phong bì thư dán kín, niêm phong mẫu vật hoàn trả số 35/KLGĐ-PC09-MT; 01 phong bì thư dán kín, niêm phong bên ngoài ghi dòng chữ túi nilon màu trắng, 02 túi nilon màu trắng và phong bì niêm phong ban đầu thu giữ của Nguyễn Minh V và Trương Hoàng T ngày 07/12/2018, ký hiệu là B; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng được niêm phong trong phong bị thư là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- Chiếc điện thoại Samsung màu đen thu của Nguyễn Minh V sử dụng liên lạc mua ma túy cần tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước .

- 01chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Minh V không liên quan đến hành vi phạm tội trả lại cho Nguyễn Minh V; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xperia màu đen, 01 chiếc điện thoại di động Sony Xperia thu của Trương Hoàng T không liên quan đến hành vi phạm tội trả lại cho Trương Hoàng T.

[5] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo: Trương Hoàng T , Nguyễn Minh V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh V 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 07/12/2018.

Xử phạt bị cáo Trương Hoàng T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 07/12/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự ; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư dán kín, niêm phong mẫu vật hoàn trả số 35/KLGĐ-PC09-MT; 01 phong bì thư dán kín, niêm phong bên ngoài ghi dòng chữ túi nilon màu trắng, 02 túi nilon màu trắng và phong bì niêm phong ban đầu thu giữ của Nguyễn Minh V và Trương Hoàng T ngày 07/12/2018, ký hiệu là B; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng được niêm phong trong phong bị thư.

- Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại Samsung màu đen thu của Nguyễn Minh V.

- Trả lại cho Nguyễn Minh V 01chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Minh V; Trả lại cho Trương Hoàng T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xperia màu đen, 01 chiếc điện thoại di động Sony Xperia.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình lập ngày 21/3/2019).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc các bị cáo Trương Hoàng T, Nguyễn Minh V, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án 25/4/2019.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2019/HS-ST ngày 25/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:42/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về