Bản án 40/2021/HNGĐ-ST ngày 18/05/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC YÊN, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 40/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/05/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 18 tháng 5 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số: 88/2021/TLST– HNGĐ ngày 22/3/2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:31/2021/QĐXXST - DS ngày 26 tháng 4 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số:19/2021/QĐST- HNGĐ ngày 05/5/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Trương Thị N, sinh năm 1998 Địa chỉ: Thôn 2 T, xã P, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái (vắng mặt, có lý do)

2. Bị đơn: anh Bàn Văn T, sinh năm 1995 Địa chỉ: Thôn Xiêng 1, xã T, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái (vắng mặt, không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 22/3/2021, các lời khai tiếp theo nguyên đơn Trương Thị Ngọc trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Bàn Văn T kết hôn trên vào ngày 26/6/2018 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã T, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do T chơi bời không chăm lo đời sống gia đình. Vợ chồng sống ly thân gần 02 năm nay không còn quan tâm đến nhau. Đến nay xác định tình cảm không còn, chị N yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: chị và anh Tới có 01 con chung Trương Thùy D, sinh ngày 16/11/2016, hiện đang ở cùng chị. Sau khi ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Lục Yên đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng đến bị đơn Bàn Văn T nhưng anh T không có mặt. Tòa án đã lập biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản không hòa giải được và đưa ra xét xử theo thủ tục chung.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Yên phát biểu ý kiến cho rằng trong quá trình tố tụng, Tòa án và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử về nội dung vụ án như sau:

Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014: Về quan hệ hôn nhân giải quyết cho chị N được ly hôn với anh T, về con chung giao cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia xét xử lần hai nhưng vắng mặt, không lý do. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp với quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: chị Trương Thị N và anh Bàn Văn T kết hôn vào ngày 26/6/2018 có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Việc kết hôn này tuân thủ đúng các quy định của Luật hôn nhân và gia đình, do đó đây là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu ly hôn của nguyên đơn: qua lời khai của nguyên đơn sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do vợ chồng chủ yếu đi làm ăn xa, anh Tới không chăm lo gia đình. Anh chị sống ly thân gần 02 năm nay và không quan tâm đến nhau đồng thời cũng không có biện pháp nào để khắc phục tình trạng hôn nhân. Hiện tại chị N cùng con chung đang sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ tại xã P, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Lời khai của nguyên đơn là phù hợp với nội dung biên bản xác minh của Tòa án tại Thôn X, xã T, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Theo nội dung đơn đề nghị xét xử vắng mặt, chị N vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”.

Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh T đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn, có căn cứ chấp nhận.

[3] Về con chung: chị N và anh T có 01 con chung Trương Thùy D, sinh ngày 16/11/2016, căn cứ lời khai của nguyên đơn và kết quả xác minh xác định hiện tại con chung đang do chị N trực tiếp nuôi dưỡng có nơi ở và học tập ổn định tại Thôn, xã P, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Mặt khác, anh T không có mặt tại Tòa án không có căn cứ xem xét việc nuôi con.

Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của con chung, theo quy định tại Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, cần giao cháu D cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, là phù hợp. Chị N không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: chị Trương Thị N phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271, 273 của Bộ Luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56; 57; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 228; Điều 271, 273 của Bộ Luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: chị Trương Thị N được ly hôn với anh Bàn Văn T

2. Về con chung: giao cho chị Trương Thị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Trương Thùy D, sinh ngày 16/11/2016 cho đến khi đủ 18 tuổi. Anh Bàn Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: chị Trương Thị N phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng chẵn) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng chẵn) theo biên lai số AA/2017/0008546 ngày 22/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Chị N đã nộp đủ tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2021/HNGĐ-ST ngày 18/05/2021 về ly hôn

Số hiệu:40/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về