Bản án 393/2020/HS-PT ngày 10/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 393/2020/HS-PT NGÀY 10/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 485/2020/TLPT-HS ngày 30 tháng 8 năm 2019, đối với bị cáo Nguyễn Hoàng L, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 277/2019/HS-ST ngày 24 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 399/2020/QĐPT-HS ngày 22 tháng 6 năm 2020.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Hoàng L, sinh năm 1987 tại tỉnh Đồng Nai; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp H, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở: 24/12B L, khu phố 18, tổ 33, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: không; Con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1952; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị bắt, tạm giam từ ngày 28/6/2016 (có mặt).

- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Ông Trần Ba, là Luật sư của Văn phòng Luật sư Mạnh Trường Xuân, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo Hồ Ngọc Đông V và Nguyễn Hoàng H bị Toà án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, nhưng không có kháng cáo, không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 17 giờ 15 phút ngày 28/6/2016, tại sảnh khách sạn Khánh Thủy (số 102 Bình Giã, Phường 13, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh), Đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an quận Tân Bình kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Hồ Ngọc Đông V và Nguyễn Hoàng H đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong túi quần phía trước bên trái của V đang mặc 01 gói nylon bên trong có: 01 gói nylon chứa 02 viên nén hình tròn màu hồng, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,5213g, loại Ketamine; 04 viên nén hình tròn màu xanh lá cây, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 1,2372g, loại MDMA; 04 viên nén hình tròn màu xanh dương, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,9665g, loại Ketamine; 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 1,7544g, loại Methamphetamine (MA); 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 1,3367g, loại Ketamine. Thu giữ trên cánh tay trái ngay khuỷu tay của H có quấn vải thun dùng băng vết thương 01 gói nylon màu đen bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 99,8152g, loại MA.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của V tại nhà số 615B Phạm Văn Chí, Phường 7, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh, Cơ quan điều tra thu giữ trên cầu thang tầng 3 có 01 gói nylon, bên trong chứa tinh thể không màu, giám định có khối lượng 40,6420g không tìm thấy thành phần các chất ma túy thường gặp; thu giữ trong phòng ngủ tầng 3 có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 1,6917g, loại MA; 02 mã tấu kim loại.

Trong quá trình bắt quả tang V và H, Cơ quan điều tra phát hiện đối tượng Lê Thị Xuân Đào (sinh năm 1983, HKTT: ấp Tà Ân, xã Thuận Hưng, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) là vợ của H đang dừng xe máy đứng chờ trước cổng khách sạn Khánh Thủy nên mời vào làm việc. Tiến hành kiểm tra thu giữ trong áo ngực bên pH của Đào đang mặc 01 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu chứa chất bột màu trắng, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,0403g, loại Heroine. Cùng lúc đó có hai đối tượng Nguyễn Anh Nhựt (sinh năm 1997, HKTT: 647/26 Lạc Long Quân, Phường 10, quận Tân Bình) và bạn gái là Hồ Thu Hiền (sinh năm 1995, HKTT: 133 ấp Tân Quới, xã Tân Lý Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang) có biểu hiện nghi vấn nên Cơ quan điều tra mời Nhựt và Hiền về trụ sở Công an Ohường 13, quận Tân Bình để làm việc, qua kiểm tra không thu giữ gì liên quan đến ma túy.

Trong lúc Cơ quan điều tra đưa V về nhà tại số 615B Phạm Văn Chí, Phường 7, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh để tiến hành khám xét thì phát hiện Nguyễn Hoàng L đang có hành vi mang 01 túi xách và cùng bạn gái là Ngô Thùy Dương (sinh năm 1993, HKTT: 55/54/50 Thành Mỹ, Phường 8, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh) từ trong nhà V định lên xe máy chạy đi nên chặn lại kiểm tra. Thu giữ trong túi xách L đang đeo trên người có:

- 01 hộp giấy màu hồng bên trong có: 01 gói nylon chứa tinh thể màu vàng nhạt, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 387,74g, loại Ketamine; 01 gói nylon chứa tinh thể màu vàng nhạt, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 174,70g, loại Ketamine; 01 gói nylon chứa tinh thể màu vàng nhạt, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 34,9320g, loại Ketamine; 01 gói nylon chứa tinh thể màu vàng nhạt, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 6,3134g, loại Ketamine; 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 14,2137g, loại MA;

- 01 túi vải màu đỏ bên trong có: 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, giám định có khối lượng 19,9659g không tìm thấy thành phần các chất ma túy thường gặp; 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 33,8392g, loại Ketamine; 01 gói nylon chứa 21 viên nén hình tròn màu xanh, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 5,0656g, loại Ketamine, 41 viên nén hình tròn màu hồng, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 11,1324g, loại Ketamine, 01 viên nén hình tròn màu vàng chanh, giám định có khối lượng 0,3650g không tìm thấy thành phần các chất ma túy thường gặp; 01 gói nylon chứa 144 viên nén hình tròn màu đỏ, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 13,7030g, loại MA; 04 viên nén hình tròn màu xanh lá, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,3842g, loại MA; 02 viên nén hình tròn màu trắng, giám định có khối lượng 0,5826g, không tìm thấy thành phần các chất ma túy thường gặp;

- 01 túi vải màu trắng bên trong có: 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 13,2652g, loại MA.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Hoàng L tại nhà số 21/12B đường liên khu 2-10, KP18, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân, Cơ quan điều tra thu giữ trong tủ quần áo phòng L ở 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 1,2378g, loại MA.

Toàn bộ số ma túy thu giữ trong vụ án đã được trưng cầu giám định, kết quả thể hiện tại bản kết luận giám định số 1331/KLGĐ-H ngày 25/8/2016 và bản kết luận giám định bổ sung số 95/KLGĐBS-H ngày 23/3/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh (bút lục 250, 328).

Quá trình điều tra, Hồ Ngọc Đông V khai: bản thân nghiện ma túy đá và có ý định mua ma túy về bán lại để kiếm lời. Do quen biết ngoài xã hội, V biết đối tượng tên Lợi (không rõ lai lịch) ở khu vực Quận 12 có bán ma túy nên ngày 28/6/2016, V điện thoại cho Lợi hỏi mua thiếu 01 lạng ma túy đá với giá 44.000.000 đồng, Lợi đồng ý và hẹn sẽ cho người đến giao ma túy cho V tại khách sạn Khánh Thủy. Khi V đang ở sảnh khách sạn Khánh Thủy thì có một nam thanh niên đến gặp định đưa ma túy nhưng chưa kịp giao nhận ma túy thì bị bắt quả tang như đã nêu trên. Đối với số ma túy thu giữ khi bắt quả tang, khi khám xét nơi ở và số ma túy trên người của L lúc L từ nhà V bước ra, V khai số ma túy này là do V mua của một đối tượng tên Mít (không rõ lai lịch) ở khu vực Quận 8, V mua về chưa kịp bán cho ai thì bị bắt. Trước khi đi đến khách sạn Khánh Thủy để mua ma túy thì V có nói với L là nếu không thấy V về hoặc không liên lạc được thì mang bịch ma túy đi tẩu tán cho V. Lê Thị Ngọc Giàu (sinh năm 1983, HKTT:

345/13N Hậu Giang, Phường 5, Quận 6) là vợ của V hoàn toàn không liên quan đến việc mua bán ma túy của V. Qua kiểm tra, V dương tính với ma túy.

Nguyễn Hoàng H khai nhận: bản thân nghiện ma túy đá, số ma túy thu giữ tại khách sạn Khánh Thủy là của H nhận từ người đàn ông tên Lợi (không rõ lai lịch) kêu H đi giao cho người mua, Lợi sẽ trả công cho H 500.000 đồng, H chỉ đi giao ma túy và nhận tiền công từ Lợi, còn việc giao dịch mua bán ma túy của Lợi thì H không biết. Khi H mang ma túy đến khách sạn Khánh Thủy định giao ma túy cho khách của Lợi nhưng chưa kịp giao thì bị bắt quả tang cùng tang vật như đã nêu trên. Trước đó, ngày 27/6/2016, H còn giúp Lợi đi giao 01 gói ma túy đá cho một người phụ nữ (không rõ lai lịch) tại quán cafe trên đường Thích Quảng Đức, quận Phú Nhuận và H được Lợi trả công 300.000 đồng.

Nguyễn Hoàng L khai: L quen biết với vợ chồng Hồ Ngọc Đông V và Lê Thị Ngọc Giàu được khoảng 3 - 4 tháng và L thường đến nhà V chơi. Vào khoảng 17h00’ ngày 28/6/2016, Giàu điện thoại kêu L đến nhà gấp có việc cần giúp. Đến khoảng 18h15’ cùng ngày, L chở bạn gái là Ngô Thùy Dương đến nhà V và Giàu. L một mình lên lầu gặp Giàu và Giàu kêu L mang quăng bỏ túi xách của V đi thật xa, L đeo túi xách đó vào người và cùng Dương ra trước nhà chuẩn bị đi phi tang túi xách của V thì bị bắt cùng tang vật như đã nêu trên. Riêng số ma túy qua khám xét thu giữ tại nhà L thì L khai là ma túy L cất giấu để dành sử dụng nhưng chưa sử dụng hết. Qua kiểm tra, L dương tính với ma túy.

Lê Thị Xuân Đào khai: bản thân nghiện ma túy, số Heroin thu giữ trên người Đào là do Đào mua của một đối tượng không rõ lai lịch tại khu vực ngã tư An Sương với giá 100.000 đồng về để sử dụng. Đào không biết H có cất giữ ma túy và đến khách sạn Khánh Thủy để làm gì. Qua kiểm tra, Đào dương tính với ma túy. Do số ma túy thu giữ của Đào chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan điều tra giao cho Công an phường xử lý hành chính theo quy định.

Lê Thị Ngọc Giàu khai: L là bạn của V, thường thấy L và V đi chung với nhau nhưng không biết đi đâu, làm gì. Giàu không gọi điện cho L vào ngày 28/6/2016 và cũng không đưa túi xách cho L nhờ L mang đi phi tang dùm. Giàu không biết và không liên quan đến việc mua bán ma túy của V. Qua kiểm tra, Giàu âm tính với ma túy. Do chỉ có lời khai của L mà không còn chứng cứ nào khác, kiểm tra điện thoại của L không có dữ liệu nhật ký cuộc gọi, xác minh tại trung tâm thông tin di động không nhận được kết quả phản hồi, còn V khai Giàu không biết gì mà chỉ có L biết việc mua bán ma túy của V, Giàu thì đổ tội cho L; nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xử lý hình sự đối với Giàu.

Ngô Thùy Dương khai: thường được bạn trai là L chở đến nhà V và Giàu chơi. Ngày 28/6/2016, L chở Dương đến nhà V và Giàu, L một mình đi lên lầu, sau đó xuống lầu có đeo một túi xách, L kêu Dương lên xe chuẩn bị đi thì L bị bắt như đã nêu trên. Dương không biết và không liên quan gì đến việc của L. Dương không sử dụng ma túy, qua kiểm tra âm tính với ma túy. Quá trình điều tra, xác định Dương không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra không xử lý hình sự đối với Dương.

Nguyễn Anh Nhựt khai: có chở bạn gái là Hồ Thu Hiền đi chơi khi chạy ngang qua khách sạn Khánh Thủy thì bị mời về làm việc. Bản thân không quen biết các đối tượng V, H, Đào. Tuy nhiên, V khai Nhựt có quen biết V và trong quá trình làm việc khi Nhựt được cho về thì Nhựt có nói với V là đã báo cho vợ V biết chuyện V bị bắt rồi. Sau đó, Nhựt thay đổi lời khai, thừa nhận có quen biết Giàu và có ăn cơm chung, nói chuyện xã giao với V nhưng không thừa nhận có báo cho Giàu biết về việc V bị bắt. Qua kiểm tra, Nhựt dương tính với ma túy. Do không đủ cơ sở xác định Nhựt liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra giao Nhựt cho Công an phường xử lý hành chính theo quy định.

Hồ Thu Hiền khai: Hiền là bạn gái của Nhựt, khi cả hai đang đi chơi ngang qua khách sạn Khánh Thủy thì bị mời về làm việc. Hiền không quen biết các đối tượng V, H, Đào. Hiền không sử dụng ma túy, qua kiểm tra âm tính với ma túy. Quá trình điều tra, xác định Hiền không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra không xử lý hình sự đối với Hiền.

Đối với các đối tượng bán ma túy cho V là Lợi, Mít, do V và H khai không rõ lai lịch của các đối tượng trên nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh, làm rõ để xử lý.

Vật chứng vụ án (đã được liệt kê tại Phiếu nhập kho vật chứng số 41/PNK/2017 ngày 24/01/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC47) và Phòng Cảnh sát Thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư pháp (PC81) - Công an Thành phố Hồ Chí Minh (bút lục 256), gồm:

1. Thu giữ của Hồ Ngọc Đông V: 03 (hai) gói niêm phong bên ngoài ghi số 1331 (gói 3, 6, 7) có chữ ký niêm phong của GĐV Lê Thị Hằng, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 01 (một) ĐTDĐ hiệu Nokia, 01 (một) ĐTDĐ hiệu Samsung; 02 (hai) cây mã tấu; Tiền Việt Nam: 43.000.000đ (bốn mươi ba triệu đồng) đã nộp Kho bạc Nhà nước Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh; 01 (một) xe môtô gắn biển số 59A3-040.08, số máy NF02E-5015802, số khung ZDCNF02AOF016288: qua xác minh được biết xe do ông Châu Kiệt (sinh năm 1990, HKTT: 115/6/1 Lò Siêu, Phường 8, Quận 11) đứng tên chủ sở hữu, ông Kiệt khai đã bán xe trên cho ông Nguyễn Thanh Bình (sinh năm 1986, HKTT:

1707/1/10 Tỉnh lộ 10, xã Tân Tạo A, quận Bình Tân), ông Bình khai đã bán lại xe trên cho bà Lê Thị Ngọc Giàu có hợp đồng công chứng nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 28/6/2016, V lấy xe trên đi mua ma túy thì bị bắt, Giàu không biết V lấy xe để đi mua ma túy.

2. Thu giữ của Nguyễn Hoàng L: 02 (hai) gói niêm phong bên ngoài ghi số 1331 (gói 1, 5) có chữ ký niêm phong của GĐV Lê Thị Hằng, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 01 (một) ĐTDĐ hiệu Nokia; 01 (một) cân điện tử, 15 (mười lăm) nỏ thủy tinh.

3. Thu giữ của Nguyễn Hoàng H: 01 (một) gói niêm phong bên ngoài ghi số 1331 (gói 2) có chữ ký niêm phong của GĐV Lê Thị Hằng, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 01 (một) ĐTDĐ hiệu Nokia; Tiền Việt Nam:

2.000.000đ (hai triệu đồng) đã nộp Kho bạc Nhà nước Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Thu giữ của Lê Thị Xuân Đào: 01 (một) gói niêm phong bên ngoài ghi số 1331 (gói 4) có chữ ký niêm phong của GĐV Lê Thị Hằng, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; Tiền Việt Nam: 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) đã nộp Kho bạc Nhà nước Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh; 01 (một) xe môtô gắn biển số 62N1-103.81, số máy JF33E-0115597, số khung RLHJF3300CY115560: qua xác minh được biết xe do ông Trần Thiện Phước (sinh năm 1987, HKTT: ấp 6, xã Thạnh Lợi, huyện Bến Lức, tỉnh Long An) đứng tên chủ sở hữu, ông Phước khai đã bán xe trên cho bà Nguyễn Thị Chon (sinh năm 1958, HKTT: 27/13 Tân Thành, phường 6, quận 11). Bà Chon khai: ngày 28/6/2016, con gái bà là Lê Thị Xuân Đào mượn xe để đi bệnh viện Hùng Vương và không biết việc Đào có liên quan đến ma túy.

5. Thu giữ của Nguyễn Anh Nhựt: Tiền Việt Nam: 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp Kho bạc Nhà nước quận 10, TP. Hồ Chí Minh; 01 (một) xe môtô gắn biển số 59P2-1953, số máy HC09E-6169547, số khung RLHHC09096Y169537: qua xác minh được biết xe do ông Hà Văn Trung (HKTT: 14 Tân Sinh, phường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú) đứng tên chủ sở hữu, xác minh tại địa chỉ trên không có ai tên Hà Văn Trung. Nhựt khai cầm xe trên của một đối tượng nam (không rõ lai lịch) với giá 2.000.000đ. Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng chưa có ai đến liên hệ giải quyết.

Tại bản Cáo trạng số 207/CT-VKS-P2 ngày 22/5/2018, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo:

- Hồ Ngọc Đông V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm e khoản 4 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009;

- Nguyễn Hoàng L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm e khoản 4 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009;

- Nguyễn Hoàng H, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm m khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 277/2019/HS-ST ngày 24 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ vào điểm e khoản 4 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoàng L 16 (mười sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính kể từ ngày 28/6/2016.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên vệ tội danh, hình phạt chính, hình phạt bổ sung, đối với các bị cáo Hồ Ngọc Đông V, Nguyễn Hoàng H; tuyên về xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của các bị cáo.

Ngày 06 tháng 8 năm 2019 bị cáo Nguyễn Hoàng L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Hoàng L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã xét xử và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo ban đầu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:

Về tội danh: Bị cáo Nguyễn Hoàng L đã thực hiện hành vi cất giữ tổng cộng 696,5265g Ketamine và Methamphetamine, là loại ma tuý ở thể rắn, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm e khoản 4 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về hình phạt: Khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét nhân thân của bị cáo, tính chất nguy hiểm của hành vi, vai trò của bị cáo trong vụ án, đồng thời cũng đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Mức án 16 năm tù mà bản án sơ thẩm đã tuyên là phù hợp, không nặng như đơn kháng cáo của bị cáo đã nêu. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu ý kiến như sau:

Về tội danh: Luật sư thống nhất và không tranh luận với Kiểm sát viên về tội danh mà bản án sơ thẩm đã xét xử.

Về hình phạt: Bị cáo L là bạn của bị cáo Hồ Ngọc Đông V. Khi V bị bắt, chỉ vì muốn giúp V nên bị cáo đã đến nhà V mang chiếc ba lô của V đi phi tang. Bị cáo có vợ và một người con sinh năm 2016. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh, điều kiện phạm tội và nhân thân của bị cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, để bị cáo sớm trở về lao động nuôi vợ con.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hoàng L làm trong hạn luật định nên đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Hoàng L tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với các tài liệu chứng cứ mà án sơ thẩm đã quy kết buộc tội, phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án đã chứng minh tại phiên tòa. Từ đó đã có đủ cơ sở để xác định:

Ngày 28/6/2016, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Tân Bình bắt giữ Hồ Ngọc Đông V và Nguyễn Hoàng H tại sảnh của khách sạn Khánh Thủy (số 102 Bình Giã, Phường 13, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh), về hành vi cất giữ trái phép chất ma túy. Sau khi bắt giữ V và H, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét nơi ở của V tại số 615B Phạm Văn Chí, Phường 7, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh, thì phát hiện Nguyễn Hoàng L, mang một túi xách từ nhà V đi ra. Kiểm tra túi xách L đang mang và nơi cư trú của L tại số 21/12B Đường liên khu 2-10, khu phố 18, phường Bình Hưng Hoà A, quận Bình Tân, Cơ quan điều tra thu giữ tổng cộng 696,5265gram ma tuý ở thể rắn, gồm 653,7226gram Ketamine và 42,8039gram Methamphetamine.

Nguyễn Hoàng L là người có đầy đủ năng lực pháp luật hình sự, ý thức được việc cất giữ trái phép chất ma tuý nhưng không nhằm mục đích mua bán là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị, nhưng vì muốn giúp Hồ Ngọc Đông V nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội, với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma tuý, là nguyên nhân làm gia tăng các loại tội phạm khác, gây mất an ninh trật tự xã hội. Với hành vi nêu trên, bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm e khoản 4 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, như bị cáo phạm tội lần đầu, hoàn cảnh gia đình khó khăn, có một con còn nhỏ (sinh năm 2016), theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và tuyên phạt bị cáo 16 năm tù là có căn cứ, đúng pháp luật, không nặng như đơn kháng cáo của bị cáo đã nêu.

Các nhận định trên đây cũng là căn cứ để Hội đồng xét xử không chấp nhận lời bào chữa cũng như đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo L không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới, do đó kháng cáo của bị cáo, đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo là không có căn cứ để chấp nhận. Cần giữ nguyên bản án sơ thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên toà.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm, nên bị cáo L pH chịu án phí hình sự phúc thẩm theo luật định.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hoàng L. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 277/2019/HS-ST ngày 24 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

[1] Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hoàng L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm e khoản 4 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoàng L 16 (mười sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tính từ ngày 28/6/2016. Tiếp tục giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

[2] Về án phí hình sự phúc thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Hoàng L pH nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày thời hạn hết kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 393/2020/HS-PT ngày 10/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:393/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về