Bản án 297/2018/HSPT ngày 19/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 297/2018/HSPT NGÀY 19/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 251/2018/HSPT ngày 03-8-2018 đối với bị cáo Nguyễn Sỹ T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 161/2018/HSST ngày 02-7-2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Sỹ T; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 20/11/1989, tại tỉnh Nghệ An; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn A, xã L, huyện S, tỉnh Nghệ An; Chỗ ở: Tổ dân phố B, thị trấn E, huyện C, tỉnh Đắk Nông; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Sỹ H, sinh năm 1957 và bà Vũ Thị S, sinh năm 1961; Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Thanh L, sinh năm 1992 và có 01 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27-02-2018 cho đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Sỹ T bắt đầu sử dụng ma túy, loại Methamphetamine từ tháng 10/2017. Vào khoảng 10h00 ngày 27-02-2018, T đón xe buýt đi từ huyện C, tỉnh Đắk Nông đến thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để tìm mua ma tuý sử dụng. Khi đi đến khu vực Km5, thành phố B, T đón xe taxi đi đến phía trước quán cà phê V trên đường Y, phường TL, thành phố B thì xuống xe. Tại đây T gặp một người nghiện (chưa rõ nhân thân, lai lịch) và được người này mua giúp một gói ma tuý đá với số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma tuý, T đón xe taxi đi đến đường M, phường TT, thành phố B. Khi đến hẻm X đường M, T xuống xe đi bộ đến khu vực phía trước số nhà N đường M thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Tang vật thu giữ trong túi quần phía trước bên phải T đang mặt gồm: 01 gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể được niêm phong theo quy định, ngoài ra còn thu giữ của Nguyễn Sỹ T 01 chứng minh nhân dân số 186822821 mang tên Nguyễn Sỹ T và số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).

Tại bản kết luận giám định số: 266/GĐMT-PC54 ngày 05/03/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Chất rắn dạng tinh thể đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 2,1549 gam, loại: Methamphetamine. Mẫu vật còn lại sau giám định khối lượng 2,1018 gam.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 161/2018/HSST ngày 02/7/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Sỹ T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Sỹ T 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 27-02-2018.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử lý về vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 17-7-2018, bị cáo Nguyễn Sỹ T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và đã khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.

Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Sỹ T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Mức hình phạt 02 năm tù cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo là thỏa đáng. Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 161/2018/HSST ngày 02/7/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Sỹ T 02 năm tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 27/02/2018).

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì thêm mà chỉ xin Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo Nguyễn Sỹ T tại phiên tòa phúc thẩm, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ pháp lý để xác định: Vào khoảng 14h00 ngày 27/02/2018 tại khu vực trước số nhà N đường M, phường TT, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, Nguyễn Sỹ T đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 2,1549 gam ma tuý, loại: Methamphetamine để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Mức hình phạt mà cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 02 năm tù là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Bởi lẽ, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy, còn là nguyên nhân gián tiếp gây ra các tệ nạn xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và cân nhắc mức hình phạt khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Do vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đăk Lăk, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột về hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ, cần chấp nhận.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Sỹ T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Sỹ T

- Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 161/2018/HSST ngày 02-7-2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

[2] Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Sỹ T 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 27-02-2018.

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm d khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 21/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Bị cáo Nguyễn Sỹ T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

310
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 297/2018/HSPT ngày 19/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:297/2018/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về